Thứ Bảy, 9 tháng 4, 2016

Bài Thơ " Màu tím hoa sim " . Sự ra đời và tâm sự của Nhà Thơ Hữu Loan.



Rơi nước mắt vì tự sự đớn đau của cha đẻ 'Màu tím hoa sim'


Những người yêu thơ tình, không ai không biết đến bài thơ "Màu tím hoa sim đầy xúc động". Đằng sau đó là một câu chuyện còn sâu sắc hơn, đau đáu hơn của tác giả Hữu Loan.

Nhà thơ Hữu Loan
Nàng có ba người anh đi bộ đội 
Những em nàng còn chưa biết nói Khi tóc nàng xanh xanh. 
Tôi là người chiến binh xa gia đình,
Yêu nàng như tình yêu em gái 
Ngày hợp hôn nàng không đòi may áo cưới,  
Tôi mặc đồ quân nhân, 
Đôi giày đinh bết bùn đất hành quân, 
Nàng cười xinh xinh bên anh chồng độc đáo. 
Tôi ở đơn vị về cưới nhau xong là đi!  
Từ chiến khu xa, nhớ về ái ngại
 Lấy chồng đời chiến chinh mấy người đi trở lại,
Lỡ khi mình không về 
Thì thương người vợ chờ bé bỏng chiều quê ... 
Nhưng không chết người trai khói lửa 
Mà chết người gái nhỏ hậu phương! Tôi về không gặp nàng,
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối. 
Chiếc bình hoa ngày cưới 
Thành bình hương tàn lạnh vây quanh ... 
Tóc nàng xanh xanh, ngắn chưa đầy búi 
Em ơi! giây phút cuối 
 Không được nghe nhau nói, 
Không được trông thấy nhau một lần. 
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím 
Ao nàng màu tím hoa sim  
Ngày xưa một mình  đèn khuya  bóng nhỏ  
Nàng vá cho chồng tấm áo  ngày xưa...  
 Một chiều rừng mưa,
Ba người anh nơi chiến trường Đông Bắc, 
Biết tin em gái mất, trước tin em lấy chồng. 
Gió sớm thu về rờn rợn nước sông Đứa em nhỏ lớn lên ngỡ ngàng nhìn ảnh chị 
Khi gió thu về cỏ vàng chân mộ chí. Chiều hành quân qua những đồi sim .. 
Những đồi hoa sim ..., 
Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết  
Màu tím hoa sim tím cả chiều hoang biền biệt 
Nhìn áo rách vai, tôi hát trong màu hoa, 
Áo tôi sứt chỉ đường tà, vợ tôi chết sớm mẹ già chưa khâu !
Hữu Loan

Xin trích đăng những dòng tự thuật của chính nhà thơ Hữu Loan:
"Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo, hồi nhỏ không có cơ may cắp sách đến trường như bọn trẻ cùng trang lứa, chỉ được cha dạy cho dăm chữ bữa có bữa không ở nhà. Cha tôi tuy là tá điền nhưng tư chất lại thông minh hơn người. Lên trung học, theo ban thành chung tôi cũng học tại Thanh Hóa, không có tiền ra Huế hoặc Hà Nội học. 
Đến năm 1938 – lúc đó tôi cũng đã 22 tuổi – Tôi ra Hà Nội thi tú tài, để chứng tỏ rằng con nhà nghèo cũng thi đỗ đạt như ai. Tuyệt nhiên tôi không có ý định dấn thân vào chốn quan trường. Ai cũng biết thi tú tài thời Pháp rất khó khăn. Số người đậu trong kỳ thi đó rất hiếm, hiếm đến nỗi 5-6 chục năm sau những người cùng thời còn nhớ tên những người đậu khóa ấy, trong đó có Nguyễn Đình Thi , Hồ Trọng Gin, Trịnh Văn Xuấn, Đỗ Thiện và…tôi – Nguyễn Hữu Loan.
Với mảnh tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh Hóa để dạy học. Nhãn mác con nhà nghèo học giỏi của tôi được bà tham Kỳ chú ý, mời về nhà dạy cho hai cậu con trai. Tên thật của bà tham Kỳ là Đái Thị Ngọc Chất, bà là vợ của của ông Lê Đỗ Kỳ, tổng thanh tra canh nông Đông Dương, sau này đắc cử dân biểu quốc hội khóa đầu tiên. 
Ở Thanh Hóa, bà tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách báo, tôi thường ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt tới. Bà tham Kỳ là một người hiền lành, tốt bụng, đối xử với tôi rất tốt, coi tôi chẳng khác như người nhà.
Nhớ ngày đầu tiên tôi khoác áo gia sư, bà gọi mãi đứa con gái – lúc đó mới 8 tuổi - mới chịu lỏn lẻn bước ra khoanh tay, miệng lí nhí: ” Em chào thầy ạ!” Chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi mắt to, đen láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằn sâu vào tâm trí tôi, theo tôi suốt cả cuộc đời. 
Thế là tôi dạy em đọc, dạy viết. Tên em là Lê Đỗ Thị Ninh, cha làm thanh tra nông lâm ở Sài Gòn nên sinh em trong ấy, quen gọi mẹ bằng má. Em thật thông minh, dạy đâu hiểu đấy nhưng ít nói và mỗi khi mở miệng thì cứ y như một “bà cụ non”. 
Đặc biệt em chăm sóc tôi hằng ngày một cách kín đáo: em đặt vào góc mâm cơm chỗ tôi ngồi ăn cơm lúc thì vài quả ớt đỏ au, lúc thì quả chanh mọng nước em vừa hái ở vườn, những buổi trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ trưa, em lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở góc nhà mang ra giếng giặt …..
Có lần tôi kể chuyện ”bà cụ non” ít nói cho hai người anh của em Ninh nghe, không ngờ chuyện đến tai em, thế là em giận! Suốt một tuần liền, em nằm lì trong buồng trong, không chịu học hành… Một hôm bà tham Kỳ dẫn tôi vào phòng nơi em đang nằm thiếp đi. Hôm ấy tôi đã nói gì, tôi không nhớ nữa, chỉ nhớ là tôi đã nói rất nhiều, đã kể chuyện em nghe, rồi tôi đọc thơ…
Trưa hôm ấy, em ngồi dậy ăn một bát to cháo gà và bước ra khỏi căn buồng. Chiều hôm sau, em nằng nặc đòi tôi đưa lên khu rừng thông. Cả nhà không ai đồng ý: “Mới ốm dậy còn yếu lắm, không đi được đâu” Em không chịu nhất định đòi đi cho bằng được. Sợ em lại dỗi nên tôi đánh bạo xin phép ông bà tham Kỳ đưa em lên núi chơi …..
                                 
Xe kéo chừng một giờ mới tới được chân đồi. Em leo đồi nhanh như một con sóc, tôi đuổi theo muốn đứt hơi. Lên đến đỉnh đồi, em ngồi xuống và bảo tôi ngồi xuống bên em.Chúng tôi ngồi thế một hồi lâu, chẳng nói gì. 
Bất chợt em nhìn tôi, rồi ngước mắt nhìn ra tận chân trời, không biết lúc đó em nghĩ gì. Bất chợt em hỏi tôi:
- Thầy có thích ăn sim không ?
Tôi nhìn xuống sườn đồi tím ngắt một màu sim. Em đứng lên đi xuống sườn đồi, còn tôi vì mệt quá nên nằm thiếp đi trên thảm cỏ…
Khi tôi tỉnh dậy, em đã ngồi bên tôi với chiếc nón đầy ắp sim. Những quả sim đen láy chín mọng.
- Thầy ăn đi.
Tôi cầm quả sim từ tay em đưa lên miệng trầm trồ:
- Ngọt quá!
Như đã nói, tôi sinh ra trong một gia đình nông dân, quả sim đối với tôi chẳng lạ lẫm gì, nhưng thú thật tôi chưa bao giờ ăn những quả sim ngọt đến thế! 
Cứ thế, chúng tôi ăn hết qủa này đến qủa khác. Tôi nhìn em, em cười. Hai hàm răng em đỏ tím, đôi môi em cũng đỏ tím, hai bên má thì… tím đỏ một màu sim. Tôi cười phá lên, em cũng cười theo! 
Cuối mùa đông năm ấy, bất chấp những lời can ngăn, hứa hẹn can thiệp của ông bà tham Kỳ, tôi lên đường theo kháng chiến. 
Hôm tiễn tôi, em theo mãi ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng nhìn theo. Tôi đi… lên tới bờ đê, nhìn xuống đầu làng ,em vẫn đứng đó nhỏ bé và mong manh. Em giơ bàn tay nhỏ xíu như chiếc lá sim ra vẫy tôi. Tôi vẫy trả và lầm lũi đi…Tôi quay đầu nhìn lại… em vẫn đứng yên đó… Tôi lại đi và nhìn lại đến khi không còn nhìn thấy em nữa.
Những năm tháng ở chiến khu, thỉnh thoảng tôi vẫn được tin tức từ quê lên, cho biết em vẫn khỏe và đã khôn lớn. Sau này, nghe bạn bè kể lại, khi em mới 15 tuổi đã có nhiều chàng trai đên ngỏ lời cầu hôn nhưng em cứ trốn trong buồng, không chịu ra tiếp ai bao giờ …
Chín năm sau, tôi trở lại nhà… Về Nông Cống tìm em. Hôm gặp em ở đầu làng, tôi hỏi em, hỏi rất nhiều, nhưng em không nói gì, chỉ bẽn lẽn lắc hoặc gật đầu. Em giờ đây không còn cô học trò Ninh bướng bỉnh nữa rồi. 
Em đã gần 17 tuổi, đã là một cô gái xinh đẹp… Yêu nhau lắm nhưng tôi vẫn lo sợ vì hai gia đình không môn đăng hộ đối một chút nào. Mãi sau này mới biết việc hợp hôn của chúng tôi thành công là do bố mẹ em ngấm ngầm ”soạn kịch bản”. 
Một tuần sau đó chúng tôi kết hôn. Tôi bàn việc may áo cưới thì em gạt đi, không đòi may áo cưới trong ngày hợp hôn, bảo rằng là: "yêu nhau, thương nhau cốt là cái tâm và cái tình bền chặt là hơn cả”. 
Tôi cao ráo, học giỏi, Làm thơ hay…lại đẹp trai nên em thường gọi đùa là anh chồng độc đáo. Đám cưới được tổ chức ở ấp Thị Long, huyện Nông Công, tỉnh Thanh Hóa của gia đình em, nơi ông Lê Đỗ Kỳ có hàng trăm mẫu ruộng. 
Đám cưới rất đơn sơ, nhưng khỏi nói, hai chúng tôi hạnh phúc hơn bao giờ hết! Hai tuần phép của tôi trôi qua thật nhanh, tôi phải tức tốc lên đường hành quân, theo sư đoàn 304, làm chủ bút tờ Chiến Sĩ. 
Hôm tiễn tôi lên đường, em vẫn đứng ở đầu làng, nơi chín năm trước em đã đứng. Chỉ có giờ em không còn cô bé Ninh nữa mà là người bạn đời yêu quý của tôi. Tôi bước đi, rồi quay đầu nhìn lại…..
Nếu như chín năm về trước, nhìn lại chỉ thấy một nỗi buồn man mác thì lần này, tôi thật sự đau buồn. Đôi chân tôi như muốn khuỵu xuống. Ba tháng sau, tôi nhận được tin dữ: vợ tôi qua đời! Em chết thật thảm thương: Hôm đó là ngày 25 tháng 5 âm lịch năm 1948, em đưa quần áo ra giặt ngoài sông Chuồn (thuộc ấp Thị Long, Nông Cống), vì muốn chụp lại tấm áo bị nước cuốn trôi đi nên trượt chân chết đuối! 
Con nước lớn đã cuốn em vào lòng nó, cướp đi của tôi người bạn lòng tri kỷ, để lại tôi tôi nỗi đau không gì bù đắp nỗi. Nỗi đau ấy, gần 60 năm qua, vẫn nằm sâu thẳm trong trái tim tôi.Tôi phải giấu kín nỗi đau trong lòng, không được cho đồng đội biết để tránh ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của họ. Tôi như một cái xác không hồn…
Dường như càng kìm nén thì nỗi đau càng dữ dội hơn. May sao, sau đó có đợt chỉnh huấn, cấp trên bảo ai có tâm sự gì cứ nói ra, nói cho hết. Chỉ chờ có thế, cơn đau trong lòng tôi được bung ra. Khi ấy chúng tôi đang đóng quân ở Nghệ An, tôi ngồi lặng đi ở đầu làng, hai mắt tôi đẫm nước, tôi lấy bút ra ghi chép. 
Chẳng cần phải suy nghĩ gì, những câu những chữ mộc mạc cứ trào ra: “Nhà nàng có ba người anh đi bộ đội… Những em nàng có em chưa biết nói. Khi tóc nàng đang xanh…” Tôi về không gặp nàng…
Về viếng mộ nàng, tôi dùng chiếc bình hoa ngày cưới làm bình hương, viết lại bài thơ vào chiếc quạt giấy để lại cho người bạn ở Thanh Hóa… Anh bạn này đã chép lại và truyền tay nhau trong suốt những năm chiến tranh. 
Đó là bài thơ Màu tím hoa Sim. Đến đây, chắc bạn biết tôi là Hữu Loan, Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày 2-4-1916 hiện tại đang “ở nhà trông vườn” ở làng Nguyên Hoàn – nơi tôi gọi là chỗ “quê đẻ của tôi đấy” thuộc xã Mai Lĩnh, huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hóa.
Em Ninh rất ưa mặc áo màu tím hoa sim. Lạ thay nơi em bị nước cuốn trôi dưới chân núi Nưa cũng thường nở đầy những bông hoa sim tím. Cho nên tôi viết mới nổi những câu : “Chiều hành quân, qua những đồi sim… 
Những đồi sim, những đồi hoa sim.. Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết.. Màu tím hoa sim, tím cả chiều hoang biền biệt…Và chiều hoang tím có chiều hoang biết…Chiều hoang tim tím thêm màu da diết.”
Mất nàng, mất tất cả, tôi chán đời... từ giã văn đàn về quê làm ruộng, một phần cũng vì tính tôi” hay cãi, thích chống đối, không thể làm gì trái với suy nghĩ của tôi”. Bọn họ chê tôi ủy mị, hoạch hoẹ đủ điều... Mặc kệ! Tôi thương tôi, tôi nhớ hoa sim của tôi quá!
Làm thơ lúc bấy giờ là phải ca tụng, trong khi đó tôi lại đề cao tình yêu, tôi khóc người vợ tử tế của mình, người bạn đời hiếm có của mình. Lúc đó tôi khóc như vậy họ cho là khóc cái tình cảm riêng…
Y như trong thơ nói ấy, tôi lấy vợ rồi ra mặt trận, mới lấy nhau chưa được hơn một tháng, ở nhà vợ tôi đi giặt rồi chết đuối ở sông… 
Tôi thấy đau xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc, vậy mà họ cho tôi là phản động. Tôi phản động ở chỗ nào? Cái đau khổ của con người, tại sao lại không được khóc? Bọn họ xúc phạm đến tình cảm thiêng liêng của tôi đối với người vợ mà tôi hằng yêu quý...
Tôi bỏ tôi về, tôi phải đi cày đi bừa, đi đốn củi, đi xe đá để bán. Bọn họ bắt giữ xe tôi, đến nỗi tôi phải đi xe cút kít, loại xe đóng bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ ở phía trước, có hai cái càng ở phía sau để đủn hay kéo. 
Xe cút kít họ cũng không cho, tôi phải gánh bộ. Gánh bằng vai tôi, tôi cũng cứ gánh, không bao giờ tôi bị khuất phục. Họ theo dõi, ngăn cản...
Định mệnh đưa đẩy, dắt tôi đến với một phụ nữ khác, sống cùng tôi cho đến tận bây giờ. Cô tên Phạm Thị Nhu, cũng là phụ nữ có tâm hồn sâu sắc. Cô vốn là một nạn nhân của chiến dịch cải cách ruộng đất, đấu tố địa chủ năm 1954, 1955. Lúc đó tôi còn là chính trị viên của tiểu đoàn. Tôi thấy tận mắt những chuyện đấu tố. Là người có học, lại có tâm hồn nghệ sĩ nên tôi cảm thấy chán nản quá, không còn hăng hái nữa. 
Thú thật, lúc đó tôi thất vọng vô cùng. Trong một xã thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, cách xa nơi tôi ở 15 cây số, có một gia đình địa chủ rất giàu, nắm trong gần năm trăm mẫu tư điền. Trước đây, ông địa chủ đó giàu lòng nhân đạo và rất yêu nước. 
Ông thấy bộ đội sư đoàn 304 của tôi thiếu ăn nên ông thường cho tá điền gánh gạo đến chỗ đóng quân để ủng hộ. Tôi là trưởng phòng tuyên huấn và chính trị viên của tiểu đoàn nên phải thay mặt anh em ra cám ơn tấm lòng tốt của ông, đồng thời đề nghị lên sư đoàn trưởng trao tặng bằng khen ngợi để vinh danh ông . 
Thế rồi, một hôm, tôi nghe tin gia đình ông đã bị đấu tố. Gia đình ông bà địa chủ bị xử tử hết, chỉ có một cô con gái 17 tuổi được tha chết nhưng bị đuổi ra khỏi nhà với vài bộ quần áo cũ rách. 
... Tôi vẫn chưa thể nào quên được hình ảnh của một cô bé cứ buổi chiều lại lén lút đứng núp bên ngoài cửa sổ nghe tôi giảng Kiều ở trường Mai Anh Tuấn. Lúc gần tới xã, tôi gặp cô ta áo quần rách rưới, mặt mày lem luốc....
Quá xúc động, nước mắt muốn ứa ra, tôi đến gần và hỏi thăm và được cô kể lại rành rọt hôm bị đấu tố cha mẹ cô bị chết ra sao. Cô khóc rưng rức và nói rằng gặp ai cũng bị xua đuổi; hằng ngày cô đi mót khoai ăn đỡ đói lòng, tối về ngủ trong chiếc miếu hoang, cô rất lo lắng, sợ bị làm bậy và không biết ngày mai còn sống hay bị chết đói. Tôi suy nghĩ rất nhiều, bèn quyết định đem cô về làng tôi, và bất chấp lệnh cấm, lấy cô làm vợ. 
Sự quyết định của tôi không lầm. Quê tôi nghèo, lúc đó tôi còn ở trong bộ đội nên không có tiền, nhưng cô chịu thương chịu khó, bữa đói bữa no… Cho đến bây giờ cô đã cho tôi 10 người con – 6 trai, 4 gái – và cháu nội ngoại hơn 30 đứa! 
Trong mấy chục năm dài, tôi về quê an phận thủ thường, chẳng màng đến thế sự, ngày ngày đào đá núi đem đi bán, túi dắt theo vài cuốn sách cũ tiếng Pháp, tiếng Việt đọc cho giải sầu, lâu lâu nổi hứng thì làm thơ...
Năm 1988, tôi "tái xuất giang hồ” sau 30 năm tự chôn và bị chôn mình ở chốn quê nghèo đèo heo hút gió. Tôi lang bạt gần một năm trời theo chuyến đi xuyên Việt do hội văn nghệ Lâm Đồng và tạp chí Langbian tổ chức.
Vào tuổi gần đất xa trời, cuối năm 2004, công ty Viek VTB đột nhiên đề nghị mua bản quyển bài Màu tím hoa Sim của tôi với giá 100 triệu đồng. Họ bảo đó là một hình thức bảo tồn tài sản văn hóa. Thì cũng được đi. Khoản tiền 100 triệu trừ thuế đi còn 90 triệu, chia “lộc” cho 10 đứa con hết 60 triệu đồng, tôi giữ lại 30 triệu đồng, phòng đau ốm lúc tuổi già, sau khi trích một ít để in tập thơ khoảng 40 bài mang tên Thơ Hữu Loan. 
Sau vụ này cũng có một số công ty khác xin ký hợp đồng mua mấy bài thơ khác, nhưng tôi từ chối, thơ tôi làm ra không phải để bán".
Nhà thơ Hữu Loan

-Bằng hữu hiện đang ở nước ngoài, có thế mua tập tuyên " Hạt mầm trót vay " của Trạch An-Trần Hữu Hội trên mạng phân phồi AMAZON theo đường link:  https://www.tulucmall.com/Products/Product.aspx?productID=0070eda5-f7c2-448f-9385-1df69d0dc94e

Hoặc : http://www.amazon.com/Hat-Mam-Trot-Vay-Vietnamese/dp/1508799490/ref=sr_1_1?ie=UTF8&qid=1426240261&sr=8-1&keywords=HAT+MAM+TROT+VAY


Thứ Hai, 4 tháng 4, 2016

Tác giả "KHÔNG SỐ PHẬN "Đã qua đời.!


Tác giả “Không số phận” đã qua đời
Dân trí -  Nhà văn người Hungary gốc Do Thái Imre Kertesz, tác giả của hai cuốn tiểu thuyết đã được dịch sang tiếng Việt - “Không số phận” và “Kinh cầu cho một đứa trẻ không ra đời”, vừa qua đời tại nhà riêng ở tuổi 86.





 

Nhà văn người Hungary gốc Do Thái - Imre Kertesz
Nhà văn người Hungary gốc Do Thái - Imre Kertesz - đã vừa qua đời ở tuổi 86 trong ngày hôm qua (31/3). Tác phẩm đầu tay mang tính định hình tên tuổi của ông là cuốn tiểu thuyết “Không số phận”, được viết ở ngôi thứ nhất, gần như là một cuốn tự truyện, kể về hành trình sống sót của một cậu thiếu niên trong trại tập trung thời kỳ Đức Quốc xã.
Tác phẩm được viết dựa trên những trải nghiệm có thật của chính tác giả. Nhà văn Imre Kertesz từng giành giải Nobel Văn chương năm 2002.
Công ty xuất bản Magveto Kiado đã cung cấp thông tin ban đầu về sự ra đi của nhà văn. Người ta cho biết rằng ông đã trút hơi thở cuối cùng tại nhà riêng, ở thành phố Budapest vào sáng sớm ngày thứ 5 (31/3) sau một thời gian dài chiến đấu với bệnh tật.
Ủy ban trao giải Nobel năm 2002 đã nói về Kertesz là một nhà văn khắc họa thành công “sự thật tối thượng” - sự thật về mức độ tàn ác mà con người có thể lún sâu vào đó. Kertesz là nhà văn Hungary đầu tiên giành được giải Nobel Văn chương dù trước đó Hungary đã từng có những nhà khoa học giành được giải thưởng hàn lâm cao quý này.
Sau khi giành được giải thưởng quan trọng, Kertesz đã dành gần một thập kỷ sau đó để lưu lại Berlin, Đức, tại đây, ông đã sáng tác những tác phẩm văn chương cuối cùng trước khi quay trở về Budapest và chịu đựng những triệu chứng của bệnh Parkinson xuất hiện ngày một rõ rệt, kể từ đó, ông hiếm khi rời khỏi nhà.
Nhà văn người Hungary gốc Do Thái - Imre Kertesz
Sinh ra ở Budapest năm 1929, Kertesz đã bị đưa tới trại tập trung Auschwitz (Ba Lan) năm 1944. Kertesz, lúc này vẫn còn đang ở tuổi thiếu niên, còn một lần nữa bị chuyển qua trại tập trung Buchenwald ở miền đông nước Đức. Cuối cùng, năm 1945, Kertesz và những người Do Thái khác đã được trao trả tự do sau khi Đức Quốc xã bị đánh bại.
Trở về Hungary, Kertesz đã cố gắng trở thành một phóng viên nhưng rồi mất việc vào năm 1951. Nhìn chung, những tác phẩm của Kertesz, đặc biệt là cuốn tiểu thuyết đầu tay “Không số phận”, đều được viết dựa trên những trải nghiệm có thật của chính ông tại trại tập trung Auschwitz, nơi có hơn một triệu người Do Thái bị sát hại.
Kertesz giành được giải Nobel Văn chương cũng chính vì ông “đã viết và nâng tầm những trải nghiệm của một cá nhân lên thành diện mạo của một trang lịch sử dã man, tàn bạo”.
Trong cách miêu tả nỗi thống khổ của những con người vô tội tại trại tập trung Auschwitz, Kertesz đã cho thấy ông là “một trong rất ít người có thể miêu tả mà ngay lập tức chạm tới lương tri, cảm giác của người đọc, những người chưa từng kinh qua những điều kinh khiết
 

Được viết trong khoảng thời gian từ năm 1960-1973, cuốn “Không số phận” thoạt tiên bị từ chối xuất bản nhưng sau đó, đến năm 1975, cuốn tiểu thuyết đã ra mắt công chúng Hungary.
“Không số phận” có nhiều nét tương đồng với cuộc đời tác giả Imre Kertesz bởi cũng như nhân vật thiếu niên trong cuốn tiểu thuyết, ông đã từng sống trong trại tập trung năm 15 tuổi. Tuy vậy, Imre Kertesz đã may mắn sống sót dù đã bước chân vào những địa ngục trần gian như trại tập trung Auschwitz hay Buchenwald.
“Không số phận” là một tác phẩm đầy sức nặng và cũng đầy ám ảnh, miêu tả một thế giới khủng khiếp dưới sự thống trị của chủ nghĩa Phát-xít, trong đó con người bị tước đoạt số phận...
“Không số phận” là một tác phẩm để lại dấu ấn sâu đậm trong nền văn học Hungary. Giọng văn lạnh lùng, thông tin đưa ra chi tiết, sự trào lộng đầy bi kịch đã mang lại cho “Không số phận” sức nặng văn chương và giá trị lịch sử, đồng thời tạo nên một phong cách không thể bắt chước của Imre Kertesz.

Nhà văn người Hungary gốc Do Thái - Imre Kertesz
Chia sẻ về cuộc đời mình trong những năm tháng sống trong trại tập trung, Kertesz từng nói: “Khi còn là một đứa trẻ ai cũng sẽ có những niềm tin nhất định vào cuộc đời. Nhưng khi những thứ kinh khiếp như trại tập trung Auschwitz xảy đến, tất cả mọi thứ đều sẽ trở nên vụn vỡ.
Bạn không thể tưởng tượng được niềm hạnh phúc vỡ òa khi được cho phép nằm một lúc trong trạm xá của trại tập trung, hay chỉ đơn thuần là được nghỉ 10 phút sau những giờ lao động khổ sai. Ở gần sát với cái chết cũng là một thứ hạnh phúc bởi khi đã sống sót vượt qua tất cả, bạn sẽ trải nghiệm được sự tự do vĩ đại nhất cuộc đời”.
Bên cạnh nghề báo, Kertesz còn từng là một dịch giả, ông đã dịch các tác phẩm của nhà triết học người Phổ Friedrich Nietzsche, nhà thần kinh học người Áo Sigmund Freud, nhà triết học người Áo Ludwig Wittgenstein, và nhà văn người Áo Elias Canetti (sang tiếng Hungary).
Ngoài “Không số phận”, Kertesz còn thực hiện nhiều cuốn tiểu thuyết khác nối tiếp đề tài về nạn diệt chủng người Do Thái, về chính quyền độc tài chuyên chế, về sự tự do cá nhân… trong hai thập niên 1980-1990. Những cuốn sách này đưa lại cho Kertesz sự kính trọng trong giới văn chương nhưng không được nhiều độc giả đón nhận.

Chính giải Nobel đã thay đổi điều đó, khiến những đầu sách của ông bắt đầu được người yêu văn chương trên khắp thế giới tìm đọc. Một cuốn tiểu thuyết nổi tiếng khác của ông có thể kể tới “Kinh cầu cho một đứa trẻ không ra đời” (1990). Tác phẩm là một sự tiếp nối đầy cay đắng của “Không số phận” và góp phần đưa Kertesz lên tới đỉnh cao văn chương.
Tác phẩm khắc họa nỗi thống khổ tột cùng của con người. “Sau Lò Thiêu, người ta sống như thế nào?”. Câu hỏi này đã được Kertesz trả lời bằng một áng văn chương đậm tinh thần tôn giáo, một bài kinh cầu, để khẳng định rằng không có một “hậu Auschwitz” nào hết, ai đã trải qua cuộc sống trong trại tập trung thì suốt đời sẽ phải sống tiếp với nó, với cái bóng của sự hủy diệt không chỉ bao trùm lên quá khứ mà còn rợn ngợp cả vào tương lai.
Cuộc sống riêng của Kertesz khá kín đáo, ông trải qua hai cuộc hôn nhân và gắn bó với người vợ thứ hai cho tới tận những ngày tháng cuối đời.
Bích Ngọc
Tổng hợp
( Bài sưu tầm từ Phong Diệp net)

* Bằng hữu đang ở nước ngoài, có thể mua tập truyên ngắn của Trạch An-Trần Hữu Hội trên mạng phân phối AMAZON. theo link sau:  http://www.amazon.com/Hat-Mam-Trot-Vay-Vietnamese/dp/1508799490/ref=sr_1_1?ie=UTF8&qid=1426240261&sr=8-1&keywords=HAT+MAM+TROT+VAY