Thứ Hai, 20 tháng 6, 2016

Làm anh. truyện ngắn - Trạch An-Trần Hữu Hội












 Làm anh.

                   * Trạch An-Trần Hữu Hội.

       Mặt trời như muốn đốt chảy mặt con đường nhựa, Hải hoa mắt vì nắng và mồ hôi, hai bánh của chiếc xe gắn máy dù vẫn căng cũng như rị lại, nặng thêm vì ma sát trên lớp nhựa đường ươn ướt.
       Hải tự trách mình nóng vội, lẽ ra anh nên nghỉ trưa một lát sau khi đạp hộc hơi mà xe không nổ máy, anh lại dắt đi sửa vào giữa trưa, nhưng anh lại nghĩ, nếu không đi ngay, chưa chắc đã ngồi yên chứ chưa nói đến chuyện nằm với cái giọng khó nghe cố hữu của chị Thứ vợ anh, đại loại như : “Anh làm sao thì làm, tối nay con Khánh dắt tụi nhỏ về mà không có xe đón thì tôi đi bộ ra cõng mẹ con nó…”
       Khánh là con riêng của Thứ, khi lấy anh Khánh đã ba tuổi. Hậu quả cuộc tình giữa chị và một anh Địa chất từ ngoải Bắc vào công tác trong vùng, khảo sát xong, đoàn về Bắc, để lại đứa con trong bụng chị Thứ, anh ta hứa là sẽ quay vào đón Thứ ra Bắc nhưng rồi biền biệt, thư chị gởi đi hai lần quay trở lại vì địa chỉ không có người nhận! Nay thì Khánh đã hai đứa con,  chồng làm công nhân cho một Công ty may mặc ở Sài gòn, không khấm khá gì vì vẫn đang ở nhà thuê, thi thoảng về thăm ngoại, khi đi, xin ít tiền chi tiêu cho cuốc sống thiếu thốn trên thành phố!
       Khánh tính tình giống mẹ, ích kỷ và khó tính. Anh cố gắng không coi Khánh là con riêng của Thứ bởi anh đã sống với nó từ ba tuổi, nhưng càng lớn, những gì anh ghét nơi con người Thứ thì nơi Khánh càng lộ rõ như bản sao. Hai đứa con của Khánh thì ngược lại, dễ thương từ khuôn mặt đến tính tình, chúng rất tình cảm, anh thương chúng.
       Tiệm sửa xe khép cửa nghỉ trưa, anh phải gọi, chị vợ ra xem ai rồi mới vào đánh thức chồng:
       - Anh Tùng, dây sửa xe cho thầy Hải, nắng chang chang thấy thầy mà tội!
       Nếu ai đó thì chắc Tùng biểu chờ, nhưng Hải thì Tùng dậy ngay bởi họ  có quen nhau. Con trai Tùng đang học cấp hai, hồi còn đứng lớp, Hải dạy nó môn Tiếng Việt, họ cũng đã đôi lần lai rai cùng nhau:
       - Xe sao vậy thầy?
       - Đề không nổ, đạp mãi chẳng thấy nhúc nhích!
       -Thầy cho xe vô đây chờ em chút.
       Tùng vào nhà mồi diếu thuốc rồi cầm cả thuốc và hộp quẹt ra mời nhưng Hải đã móc túi lấy thuốc, anh ghiền thuốc nặng nên đi đâu cũng không quên bọc theo.
       Tùng bảo vợ pha trà mời Hải vào nhà, anh khát thật sự nên không ngần ngại xin vợ Tùng một cốc nước đá tủ lạnh. Tùng vừa đề vừa đạp, lâu lâu lốp bốp rồi tắt…
       - Thầy ơi, thầy có gấp đi đâu thì lấy xe em mà đi, cái điệu này lâu đó!
       Hải không gấp đi đâu, nhưng cần phải ghé Thưởng mượn it tiền chứ khi dắt xe đi, anh quên mất chuyện tiền.
       - Ừ, vậy thì cho chú mượn xe, chạy qua chú Thưởng nó chút.
       Ngoài học trò và lứa tuổi còn đi học, Hải ít khi xưng thầy với phụ  huynh, chỉ áng chừng tuổi tác mà xưng chú hoặc anh.
       Tùng mau mắn dắt chiếc xe của mình ra cho Hải, nó cũng cùng loại xe số “Yamaha Taurus” như của Hải, trông cũ nhưng máy móc trơn tru hơn nhiều.
        Hải lâu rồi không ghé thăm chú em, đứa em duy nhất của anh.
        Anh nhớ lại hồi 1972 kinh hoàng ấy, bốn mẹ con chạy qua đoạn cầu Dài, chiếc cầu không dài như tên gọi mà ngược lại rất ngắn, nằm trên Quốc lộ 1 đoạn từ Quảng Trị vào Huế. Sau này, ai đó đã đặt cho nó một cái tên rất đúng với những gì đã xảy ra nơi đây, còn hằn sâu trong ký ức của những ai đã trải qua: “ Đại lộ kinh hoảng”.
        Hải nắm tay Thưởng chạy trước, mẹ cõng Liên chạy sau, cách chỉ một đoạn ngắn bởi Hải luôn nhìn lại mẹ, sợ bị lạc trong dòng người hốt hoảng, em Liên nằm trên lưng mẹ, cứ mỗi lần Hải quay lại nhìn, em vẫy tay… đạn pháo nổ quanh làm Hải và Thưởng quỵ té nhiều lần, Hải muốn cõng em giúp mẹ nhưng mẹ không chịu.
       Trên quốc lộ, các loại xe quân đội và xe đò chết máy chật cứng con đường, lính và dân thường chạy hai bên bãi cát lúp xúp cỏ. Người chết, bị thương nằm la liệt rên la…Tất cả đều chạy, hướng vào Huế tìm cái sống!
        Một trái đạn pháo nổ từ phía sau, xô Hải và Thưởng lật sấp xuống cát, vội vàng đứng dây định chạy tiếp nhưng anh nhìn lại, không thấy mẹ và em Liên, người ta xúm nhau kêu la khóc lóc chỗ trái pháo vừa nổ, Hải kéo em quay lại, mẹ và em Liên nằm hai nơi, cách nhau chừng ba mét, quanh xác mẹ và em, những cái xác khác la liệt bao quanh…Hải nhận ra em nhờ cái áo chấm hoa màu tím, cố chen vào đám đông ẵm em Liên bị mất một chân, đến đặt nằm bên mẹ. Thưởng khản giọng gào lên, chìm trong tiếng ồn ào thảm thiết của bao nhiêu người. Hải úp ngang người trên mẹ và em, tay vẫn nắm áo Thưởng, anh nhớ là mình đã không khóc, không la. Anh nhắm mắt nghĩ đến cha giờ đang ở đâu đó, có biết vợ và con gái mình đã chết, hai đứa con trai đang bất lực trong hiểm nguy…Chuyến về phép ngắn ngủi vừa rồi, cha đã nhiều lần ôm ghì Liên, hôn lên đôi má bầu bĩnh của đứa con gái bé bỏng mà ông mong chờ năm năm mới có được!
         Cha anh kể lại sau này, ông đang ngồi bóp bao gạo sấy bên chiếc hầm, trong làng Thi Ông, cách chỗ ấy không xa, bỗng như có một tia điện xẹt vào đầu ông, buông bao gạo đã nhuyển, ông chụp cây súng, nhưng rồi ngồi thừ người chẵng biết vì sao…Đến tối, Chuẩn úy Phú  báo tin dữ, cho phép ông đi tìm gia đình!
         Mùa hè đó. Anh 13 tuổi, Thưởng 10 tuổi và em Liên 5 tuổi!
         - Chú ấy vậy mà cũng  52 tuổi rồi nhỉ!
         Bất giác, Hải nói thành lời khi rẽ vào con đường trong lô cao su dẫn vào khu nhà ở của công nhân nông trường…
         Vào nhà, vợ chồng Thưởng vừa ăn cơm xong, Lệ vợ Thưởng chào anh rồi hỏi:
         - Anh ăn cơm chưa, đi đâu mà nắng thế?
         - Anh ăn rồi, cái xe hư phải đi sửa để chiều ra đón mấy đứa nhỏ. Tụi nó vẫn học tốt chứ?
         - Dạ.
         - Chú mới đi cạo về?
         - Hôm nay công ty giao hàng mủ, xúm nhau bốc vác nên về trể. Xe sao vậy?
         - Chả biết, lâu lâu trở chúng một lần…
         - Anh bảo nó làm máy, thay cái đề, bính xăng con…cho ngon lành chứ  cứ vậy mệt lắm!
         - Ừ, rảnh anh cho nó làm như chú nói. Giờ có sẵn tiền không anh mượn mấy trăm? Vội đi không kịp lấy tiền.
         Lệ mau miệng hỏi:
         - Bao nhiêu anh ?
         - Anh mượn ba trăm.
         Lệ đứng dậy định vào trong lấy tiền nhưng Thưởng móc túi ra mấy tờ năm trăm.
         - Bốc xong thủ quỹ phát ngay, cả tổ được hai triệu ba, mấy cái khoản khoán này được cái khá là có tiền liền.
         - Anh cầm năm trăm, lỡ thiếu…
         Hải nhìn quanh rồi ngước lên trần nhà chậm rải hỏi:
         - Chú thím định khi nào làm nhà?
         - Hơi lâu anh ạ, sang năm thằng Thắng ra trường, con Thủy mới năm đầu, không ở chung anh em với nhau được mà phải ở cùng bạn gái nó, tốn lắm!
         Vợ chồng Thưởng cùng cạo mủ cao su, nay người ta khoán lô nên ai siêng năng thì cũng có, thêm nữa là vợ chồng có thể làm thay nhau nên dạo này công nhân khá hẳn lên. Khá là nói thế chứ nuôi hai đứa con vào đại học như Thưởng thì cũng chật vật.
          Hải thương em lắm, gia cảnh anh khá hơn nhiều nhờ hai vợ chồng đều ăn lương, anh đi dạy chị làm Bưu điện. bao năm nay…
          Hải đứng dậy đưa tay nhìn đồng hồ:
          - Uống ly cà phê rồi đi cạo kịp không?
          - Kịp chán, còn sớm với lại làm khoán thì làm lúc nào chả được!
          Thưởng lên xe ngồi sau lưng Hải. Quán trưa vắng khách, Thưởng chợt nhớ là lâu lắm rồi, anh em chưa uống với nhau ly cà phê hay có dịp ngồi chuyện trò như hồi  cha còn sống.
          Sau trận cầu Dài năm ấy, tìm được hai đứa con, ông Mừng đem chúng vào Đà Nẵng, sống trong trại tạm cư, quyết định đào ngũ.
          Ông không hồi cư, Quảng Trị vẫn đang đánh nhau, dằng co qua lại trong Thành Cỗ. Có chương trình vào Long Khánh khai hoang, ông làm đơn đi theo. Sống trong rẫy nên chuyện đào ngũ của ông không ai biết.
          Năm 1975, ông không còn lo chuyện đào ngũ nhưng cả nước đều cực, ông vất vả nuôi con…Hải vào được cao đẳng sư phạm Biên Hòa, Thưởng phải bỏ học phụ cha rẫy nương. Thưởng lập gia đình năm hai mươi bảy tuổi. Năm sau thì cha mất, Hải muộn màng hơn, sau Thưởng bốn năm…
          Một người mù vào quán với xấp vé số, đứa con gái hững hờ ngáp trong lúc người mù cất giọng yếu ớt mời, Hải móc túi còn đúng ba chục tiền lẻ, anh mua ba tấm, đưa cho Thưởng một tấm.
                                                                      oOo

           Hải ngồi cúi đầu, ghét mình vì cái tội mau mồm, mau miệng!
           Hôm đi sửa xe về, anh cởi áo vắt lên thành salon rồi nằm dài ra định chợp mắt một lát. Chị Thứ thấy trong túi có tiền hỏi:
           - Anh quên lấy tiền sửa xe, mượn ai à?
           - Phải chạy qua chú Thưởng mượn mấy trăm. À, có mua ba tấm vé số, cho chú nó một tấm rồi.
          Rồi anh quên đi mấy tấm vé, sáng nay đi dạy, nghe giáo viên kháo nhau ầm lên là trong vùng có mấy người trúng độc đắc. Ai cũng chép miệng…
          Dạy xong, anh phóng xe đến đại lý trên thị trấn, nhìn lên bảng dò của ngày hôm trước, lô trúng đặc biệt được khoanh lại bằng phấn đỏ, nhẩm thuộc hàng số rồi mua hai tấm, chạy vội về, bảo chị Thứ lấy hai tấm vé.
          Hàng số sáu con y như trong đầu anh, anh hét lên: Trúng !!!
          Chị Thứ trợn mắt, thừ người nhìn anh, một lát sau chị lăn ra giữa nhà, nghĩ ngay dến tấm vé anh cho Thưởng, làm mình làm mẫy…
          - Anh không lấy lại tấm vé, tôi thắt cổ chết cho anh coi!
          - Cho nó rồi giờ lấy lại sao được!
          Chị chụp hai tấm vé đi nhanh vào phòng ngủ, lát sau đi ra.
          - Bà làm gì ? Nó đang khổ, cài nhà không ra nhà, cạo mủ được bao nhiêu thì lo cho mấy đứa con! Minh có hai tấm ba tỷ, nhà cửa đã ổn, lương lá thu nhập mình cũng khá hơn…
          Thứ không nói gì thêm. dắt xe ra ngõ. chị chạy đến nhà Thưởng, vào nhà thấy hai cha con Thưởng và Thủy đang ngồi. Chị Thứ đon đả:
          - Thủy về hồi nào sao không qua bác chơi. hôm nay chú không đi cạo à? Chị ghé trả chú năm trăm hôm anh Hải mượn.
         Thưởng đứng dậy kéo ghế mời chị dâu:
         - Gấp gang chi vậy chị ?!
         Thứ móc túi bỏ lên bàn tờ năm trăm đồng, làm bộ như chợt nhớ:
         - À, cái vé hôm anh Hải mua trúng một triệu, chú bỏ đâu rồi, đưa chị đi lãnh luôn cho. Đi thị trấn mua cho ông ấy hộp yến bồi dưỡng chứ dạo này cứ than ăn không ngon miệng!
         Thưởng vổ túi quần, cái quần mặc hôm Hải đến nhà tới nay vẫn chưa thay, móc túi lôi ra tấm vé nhàu nhàu lẫn trong mớ tiền lẻ:
         - Hên vậy à, có tiền cho Thủy lên lại Thành Phố rồi!
         Lấy được tấm vé chị Thứ chạy ngay về nhà, vào phòng đóng cửa, gọi điên cho Khánh bảo hai vợ chồng về gấp.
         Hải vẫn còn đang bần thần chao đảo…Anh ngước mắt nhìn chị Thứ bằng đôi mắt vô hồn rồi chợt nhớ ra, anh lấy máy gọi cho Thưởng…
         - Tấm vé mua hôm uống cà phê đâu rồi?
         - Em vừa đưa cho chị…
         - Trời ơi, sao chú lại đưa!
         Anh bật người ra ghế thở dài:
         - Khốn nạn!
                                                                    oOo
        Chị Thứ về hưu năm ngoái, luôn than thở chuyện lương bổng không đủ sống bởi không còn những khoản tiền vô thưởng vô phạt như trước!
        Từ khi lấy nhau, không biết bao nhiêu lần vợ chồng anh lục đục, có lần suýt chia tay bởi nhiều cái khác nhau trong tính cách. Chị Thứ lắm khi hổn xược, hàm hồ xúc phạm anh, nhưng cuồi cùng, bao giờ anh cũng cố dằn lòng cho qua, tránh cãi vả to tiếng bởi mình là giáo viên, sợ người ta to nhỏ, xầm xì. Anh thường tự an ủi là chị lúc nào cũng tươm tất nhà cửa, lo cho con cái, thằng con trai của anh đang học đại học Y trên thánh phố, hời hợt chuyện tiền nong giống như anh nhưng rất thương mẹ.
        Gần dây, xem những bạn đồng nghiệp, những đôi vợ chồng ly hôn, phần nhiều  chẳng hạnh phúc hơn là bao mà ngược lại, có lắm đôi rơi vào bất hạnh…Anh lôi ra cái câu duyên số vợ chồng là do trời định để tự thuyết phục, an ủi mình…
         Chiếc taxi chở vợ chồng và hai đứa con Khánh từ sài gòn về, vào hẳn trong sân, đậu sát cửa nhà. Chị Thứ từ trong phòng vội vàng chạy ra. Hải đứng dậy nhưng rồi anh ngồi xuống, chán nản…
         Chưa bao giờ anh trúng số, dù chỉ vài triệu, cũng chưa bao giờ anh có một số tiền lớn đến một lần. Những gì anh có được hôm nay đều do tích góp mà có. Trúng độc đắc bạc tỷ là chuyện trên trời rơi xuống, anh thậm chí không hình dung được là bao nhiêu, chỉ mơ hồ là nhiều lắm, làm được nhiều việc lắm…Nhưng với lòng tham và việc lấy lại tấm vé mà anh cho Thưởng, chị Thứ đã làm mất hết mọi hứng thú, thay vào đó là một mặc cảm tội lỗi lớn dần lên trong anh.
        Việc gọi vợ chống Khánh về, bao hẳn một chiếc taxi, như cố tình loại anh ra ngoài toan tính của chị càng làm anh tức giận, chán chường…
        Đứa con rể cúi chào rồi khéo léo đẩy hai đứa nhóc vào lòng anh, con bé lớn có vẻ như biết anh đang giận, bà cổ dụi đầu vào ngực nói:
        - Ngoại lên Sài gòn ở với con nghe!
        Chị Thứ và Khánh vào phòng mang ra mấy cái túi xách, anh tài xế mở cửa cho vào sau xe…
        Chờ cho tất cả lên xe rồi chị mới bỏ cái bì thư lên bàn:
        - Tiền trong đây, tôi lên với tụi nó vài hôm.
        Anh muốn to tiếng nhưng sợ tài xế nghe thấy, nhìn chị gằn giọng:
        - Làm gì thì làm, nhưng phải chuyển vào tài khoản lương cho tôi năm trăm năm chục triệu.
       
                                                               oOo
        Vẫn chưa ai biết Hải trúng số đặc biệt, anh cũng chưa gọi lại cho Thưởng nên  không biết chú ấy có biết không. Chiều nay, họp chuyên môn xong thì có tin nhắn từ máy của Khánh: “ Mẹ đã chuyển tiền cho ba, ba cho mẹ xin lỗi.”
         Hải gọi ngay cho Thưởng:
        - Chú có nhà không?
        - Em đang cạo, có gì không anh?
        - Về nhà đợi anh, anh tới bây giờ.
        Hải vẫn chưa biết phải nói sao với vợ chồng đứa em, nó vốn hiền và chịu khó giống cha anh. Những ngày khổ cực phải bỏ học làm lụng cùng cha cho anh học cao dẳng…Những năm chưa lập gia đình, thỉnh thoảng anh cũng có cho em vài trăm may cho cháu bộ đồ tết và cũng chỉ có thế bởi lương ngày ấy còn quá thấp. Từ ngày lấy chị Thứ, anh không giúp gì được cho em bởi chưa dư dật gì…
       Vào đến nhà Thưởng, thấy hai vợ chồng ngồi nhìn ra, mặt lo âu:
       - Có chuyện gì vậy anh?
       Đã dự tính sẽ nói thật mọi việc cho em nên Hải ngồi xuống, vợ Thưởng đứng dậy định đi pha trà nhưng anh kéo tay:
       - Thím ngồi xuống đây anh nói cái này. Chú thím biết là chị tính nết thế nào rồi, anh cố gắng gỡ cái lỗi. Tấm vé hôm uống cà phê anh đưa cho chú trúng đặc biệt, một tỷ rưởi !
       - Sao chị nói trúng một triệu!
       Hải hiểu ra cách Thứ lấy lại tấm vé.
       - Một tỷ rưởi! Biết anh cho chú một tấm, chị ấy làm mình làm mẩy đòi qua lấy lại, anh không chịu, đang cải nhau rất căng rồi tự nhiên bỏ đi, anh đang giận nên đâu ngờ…Bây giờ anh vẫn chưa hết giận, hôm qua cả nhà lên Sài gòn rồi. Anh buộc mấy mẹ con phải chuyển cho anh năm trăm năm chục triệu. Anh tính năm chục xây mộ cho ba mẹ và em, năm trăm cho chú thím làm cái nhà, còn bao nhiêu mấy mẹ con tự tính với nhau, anh không cần!
       Hai vợ chồng Thưởng bất ngờ đến tròn mắt không nói gì, lát sau Thưởng mới cười nhìn anh:
      - Hôm đó anh không mua, không cho thì sao. Giờ có năm trăm triệu làm cái nhà là coi như vợ chồng em trúng đặc biệt rồi!
      Hải nhìn hai vợ chồng em:
      - Chú thím không buồn ?
      Thưởng cười ha hả nói to:
      - Thì ban đầu ông trời định cho một tỷ rưởi, nhưng sau đổi ý cho năm trăm kẻo sợ có tiền sinh hư hỏng bê tha, bỏ bê vợ con. Tiền trên trời rơi xuống thế này rất nguy hiểm, phải không em?!
      Vợ Thưởng cũng cười, chị chưa hề mơ ước đến một số tiền lớn như vậy. Năm trăm triệu, vợ chồng chị dành dụm biết bao giờ mới có?!
      - Làm nhà chi to dữ vậy anh. Anh hai em vừa làm cái nhà hết ba trăm, thấy to và đẹp quá đi rồi!
      Hải như vừa thoát bỏ một gánh nặng, anh vổ vài Thưởng:
      - Còn sớm, mình ra nghĩa trang chút.
      Thưởng đứng lên theo anh ra cửa, nói:
      - Phụ nữ họ lo lắng nhiều nên vậy, chị chấp nhận cho em năm trăm là tốt lắm rồi, anh đừng giận hờn nghĩ ngợi nữa. Coi sắp xếp má lên cùng chị ấy, thời buổi này lường gạt đủ trò, không khéo là mất đó!
      Hải đứng sựng lại nhìn em, đứa em ít ỏi, lam lũ quanh năm, anh không ngờ lại có được những suy nghĩ như thế:
      - Chú ít học mà chín chắn và rộng lượng hơn anh, anh cảm ơn chú!
      Hải leo lên ngồi sau em, anh ngước mắt nhìn lên hàng cao su, nhớ lại con lộ kinh hoàng năm ấy, tay anh ôm choàng qua bụng Thưởng, như ngày nào anh vẫn nắm tay áo em khi anh khom người qua xác mẹ và em Liên trên bải cát!
     
                                                                Sài gòn, tháng VI. 2016.
                                                                Trạch An-Trần Hữu Hội


      
       
        

       
       
       
        

        
        

       



        



       




Thứ Ba, 7 tháng 6, 2016

Miền Tây trong tôi.







Miền Tây trong tôi.
(Tập san VHNT. Quán Văn 31. số tháng 6/2015. “Sông nước miền Tây.”)

. Trạch An-Trần Hữu Hội.

Những kỷ niệm…

Lâu, lâu lắm rồi, dễ chừng đến 52 năm. Ngày ấy tôi mới học lớp Nhì, tức là lớp bốn theo chương trình hiện nay. Trong nhà tôi có một chống tạp chi Hương Quê, báo khổ lớn, anh cả tôi mang về cho tôi bao vở. Thỉnh thoảng tôi lấy ra xem. trước hết, tôi mở phần bìa sau, xem truyện tranh “Lục Vân Tiên”. Chỉ độ mười bức tranh vẽ theo chuyện “Lục Vân Tiên” cho mỗi số. Tôi thích vì mẹ tôi thường kể cho nghe từ lúc còn nhỏ ở làng quê, chưa đi học, suốt ngày tha thẩn bên chân mẹ. trong những lúc người ngồi nhặt thóc, xắt chuối cho heo... Sau này, khi lên cấp Hai, tôi mới học và biết Nguyễn Đình Chiểu, một nhà nho yêu nước, quê ở Bến Tre. là tác giả chuyện thơ này.
Kế đến, chỉ đọc duy nhất một bài viết nhiều kỳ mà tôi ấn tượng và thích thú hơn cả là bài “Mắm Bồ Hóc” của Bình Nguyên Lộc. Bây giờ, thời gian chồng chất, tôi đã  ở tuổi sáu mươi, không còn nhớ gì ngoài cái tên món ăn lạ lùng ấy!
“Mắm Bồ Hóc” gắn liền với miền Tây và “Bình Nguyên Lộc” trong trí tôi. Ai đó nhắc đến miền Tây là tức khắc trong trí tôi hiện ra: “Mắm bồ hóc - Bình Nguyên Lộc”. Ngoài ra tôi không biết thêm gì khác về miền Tây, nơi có nhiều món ăn đặc biệt dân dã ruộng đồng. Cuộc sống phóng khoáng phong lưu, tấm lòng hiếu khách vô bờ của người dân nơi vùng đồng bằng bao la này….
Lớn lên, năm 17 tuổi, tôi về Cần Thơ theo anh tôi là lính, chứng kiến lòng hiếu khách và nhân ái qua hàng xóm láng giềng nơi con lộ 19. Họ sẽ chia chăm chút cho gia đình tôi, tận tình chăm sóc dùm các cháu, lúc tôi và chị dâu phải đi lo các thủ tục cả Quân đội lẫn Dân sự, sau khi anh tôi chết.
Khi chiếc xe chở quan tài rời con lô, xóm giềng và cả nhà tôi cùng khóc. Khóc cho sự mất mát đau thương, khóc cho tình cảm vừa chớm, trong chỉ chưa đầy hai tháng ngắn ngủi, đã vội chia xa…
Rồi sau năm 1975, bước chân lưu lạc của tôi lại quay về miền Tây.
Bạn bè của tôi trong giai đoạn khó khăn kinh tế ở Ninh Thuận, nhiều gia đình tìm đến miền Tây vì nơi đây là vựa lúa, chuyện đói gạo đói cơm là không thể xảy ra.
Về thăm bạn, tôi xin vào làm hợp đồng chụp ảnh cho phòng VHTT huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp.
Nhà bạn tôi ở chợ Ngã Năm, nơi đây người dân địa phương thường nói đùa là cọng rau muồng bò năm tỉnh! Từ Sài Gòn, bạn tôi dặn dò là nhớ nói xe cho xuống “Cầu Xéo”, tức là cầu “Thông Lưu”. Xuống xe thì hỏi bến “Tác ráng” (đò máy, đóng theo mẫu đò máy của Thái Lan, lép bề ngang nhưng dài bề dọc, hình như tên gọi “Tác ráng” cũng tiếng Thái Lan.) chạy vào chợ Ngã Năm. Tôi cứ nghỉ đò chạy chừng vài chục phút, ngờ đâu bằng cả thời gian từ Sài Gòn về!
Hơn một năm sống với sông nước, kinh rạch miền Tây, với con người hiền hòa, giản dị từ trong bản chất, phóng khoáng đến ngạc nhiên, tôi gởi gắm lại nơi đậy nhiều kỷ niệm. Từ những cuộc rượu tràn bờ, những chuyến đi săn hình ở vườn cò, những lần đi chụp hình đám cưới xa, đi bằng “tác ráng”mất một ngày đêm, ngủ gà ngủ gật…rồi bận về cũng ẩm ê gật gà như thế!
Có lần đi chụp hình phục vụ “mit-tin” cho xã Thạnh Mỹ. Khi đi có xuồng chở đi, mất một ngày, nhưng khi về, không có xuồng, tôi và một đồng nghiệp phải đi bộ. Anh bạn tôi là dân miền Tây chính tông, qua cầu khỉ như đi trên đường cái, còn tôi, chao ơi là vất vã. Đưa túi máy ảnh cho bạn, tôi ngồi bệt, hai chân thòng hai bên thân cây dừa bắc qua rạch làm cầu, cứ như thế mà lần qua trong tiếng cười ha hả, ha hả… của bạn. Không phải chỉ một cây cầu, tôi nhớ không lầm thì qua sáu lần như thế!!!
Tôi cũng đã gởi lại miền Tây hai mối tình, mà mỗi lấn nhớ đến, lòng tôi không khỏi xuyến xao!
Hai năm trước khi về Đồng Tháp, tôi có người em họ về làm ăn sinh sống tận Cà Mau. Chú ấy luôn nhắn tôi về chơi, dạo ấy, tiền xe là đều khó khăn hơn cả! Nhưng rồi cuối cùng tôi cũng kiếm đủ tiền xe cho chuyến đi tới tận cùng đất nước. (theo bài học địa lý hồi còn bé. Nước Việt Nam kéo dài từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau).
Trong lúc qua phà Cần Thơ, hành khách phải xuống xe. Đứng trên phà nhìn mông lung dòng Cửu Long ngầu đục mà nhớ lại thời gian ngắn ngủi ngày nào ở Cẩn Thơ…Bổng tôi nhìn xuống chân, một người hành khất cụt hai chân, di chuyển bằng cách lết hai tay, miệng cắn ngửa cái mũ. vội vàng tránh qua nhường lối đi cho người hành khất, tôi dẫm nhằm chân một người con gái. Quay qua vội vã xin lỗi, đôi  mắt đen, dịu dàng sau làn kiếng cận của cô gái làm tôi bồi hồi….
Bắt chuyện làm quen, tôi biết là cô ấy ờ Vĩnh Long. tốt nghiệp cao đẳng Dược ở đại học Y-Dược Cần Thơ năm trước. nay trở lại trường để lầy bằng.
Tiếng hối thúc lên xe của các lơ xe cùng lúc vang lên khi phà đến bờ, hành khách hối hả lên xe của mình. Cô ấy lên xe Cần Thơ, tôi thất vọng vì không kịp ghi cho nhau địa chỉ, nhưng rồi cô ấy đã nhanh trí, thông minh. Khi tôi đang quyến luyến nhìn theo thì thấy cánh tay cô ấy với ra, kèm theo một bì thư không ruột, mà địa chỉ người nhận là cô ấy. Phạm Kim H. , Cửa hàng dược Càn Long, Vĩnh Long.
Những lá thư qua lại, có một lần, H. lên thăm tôi ở Sài Gòn nhưng không báo trước nên không gặp được nhau vì tôi về thăm mẹ ở Ninh Thuận! Trở lại Sài Gòn, tôi nghe bạn chung phòng nói lại là không gặp tôi, H. đã rất thất vọng và buồn. Ba hôm sau tôi về Càn Long, gặp lúc H. đi nghĩa vụ Thủy lợi đâu dó rất xa! Anh của cô ấy nhắn người quen báo tin, hôm sau H về, gặp tôi trong tâm trạng vừa mừng vừa bối rối âu lo. Nỗi lo âu bối rối của một cô gái lần đầu có bạn trai bất ngờ đến nhà!
Bởi tôi chưa muốn gắn kết đời mình vào hôn nhân khi mà chính bản thân còn bấp bênh, chưa có gì gọi là ổn định cho tương lai. Những là thư thưa dần rồi ngưng hẳn. Tôi phải tự chọn lấy cách chấm dứt khi tình chưa mặn nồng. Phạm Kim H. còn mãi trong ký ức tôi với đôi mắt đen tròn sau lớp kính long lanh!
Chuyện tình thứ hai của tôi đậm đà hơn bởi lúc này tôi đã hai mươi chín tuổi.
Sau khi làm hợp đồng với phòng VHTT huyện Đồng Tháp một thời gian. Tôi quen Ng. Nếu nói đoạn kết một tình yêu có trọn vẹn hay không là do duyên số, thì chuyện tôi và Ng. chia tay trong ngậm ngùi luyến tiếc của cả hai, chắc cũng bởi chưa đủ Duyên và Nợ!
Ng. cùng tuổi tôi, đã quá lớn đễ nói đến chuyện hôn nhân đối với người miền Tây. Nhà Ng. trước 75 là một hiệu sách lớn trong chợ huyện. sau này không còn bán sách nhưng niềm ham mê đọc sách vẫn còn trong Ng.
Dạo ấy mua sách thật khó, chỉ trong thư viện của phòng VHTT mới có những bộ sách hay. Tôi mượn về đọc rồi đưa cho Ng. cùng xem. Cùng chung sở thích, cùng cảm nhận giống nhau về những tác phẩm văn chương, chúng tôi đã yêu nhau.
Khi tôi không còn nghỉ đến chuyện phải có “cái gì đó” gọi là làm căn bản cho cuộc sống, cho tương lai vợ chồng, tôi chấp nhận kết hôn rồi khi thành gia thất sẽ cố gắng bằng sức mình tạo dựng tương lai…thì cha Ng. người luôn thương yêu và lo lắng cho con gái, khi cân nhắc chọn lựa người chồng cho Ng., giữa một kỷ sư xây dựng, đang làm việc ổn định ở Mỹ Tho và tôi, anh thợ ảnh hợp đồng. Ông ấy đã chọn anh kỷ sư. Mặc dù tôi được cảm tình của mẹ Ng. và Ng !
Tôi quyết định về lại Sài Gòn. Nói với Ng là cha Ng đúng khi chọn anh Kỷ sư. Người sẽ đem lại hạnh phúc cho Ng sau này.
Chúng tôi chia tay nhau trong nuối tiếc! Quà tôi tặng cho Ng lúc rời nhau nơi bến đò khuya là bộ truyện dịch: “ Jane Eyre” của nhà văn Anh Chariotte Bronte.
-Quà cưới anh gởi trước cho Ng. đó!.
Nước mắt đã rơi thật nhiều trong đêm ấy!
Tôi không trở lại miền Tây, giờ cũng đã hơn ba mươi năm! Tôi biết Ng. đã yên ấm, hạnh phúc với gia đình, với duyên số của mình.
Viết đến đây, tôi nhớ đến Vũ Thành An với lời bản nhạc “không tên cuối cùng”, được sửa lại sau khi chính bản thân mình trải nghiệm những đa đoan của cuộc đời “…nếu chúng mình có thành đôi lứa, chắc gì ta đã thoát ra đời khổ đau !”

Quán bên đường” và cây đa văn chương Trang Thế Hy.(*)
Thơ ấu tôi chỉ biết Bình Nguyên Lộc là nhà văn miền Tây. Chừng tuổi biết uống cà phê, trong một quán cà phê ở Quảng Trị, tôi nghe bản nhạc “Quán bên đường”của Phạm Duy qua tiếng hát Thái Thanh. Tôi bồi hồi ngơ ngẩn, thích nhất là mấy đoạn:
“ Ngày xưa, ngày xửa, ngày xưa
“ Hai đứa mình còn trẻ thơ/
rủ nhau ngưỡng cửa đùa chơi, thẩn thơ…”
……………………………………………
“ Á ơi nhớ má chưa hồng
da mét vì em nghèo
đầu anh còn húi trọc
khét nắng hôi trâu thèm đi học”
Phải chăng tuổi thơ tôi cũng như thế, miền quê tôi cũng ruộng đồng, rơm rạ, những chiều buồn cũng rủ nhau ngưỡng cửa đùa chơi thẩn thơ. “thẩn thơ”, một trạng thái tình cảm không vui, không buồn…không vọng tưởng đến một đều gì chính xác, như xoáy vào lòng tôi! Gợi trong tôi bao chiều nắng…vàng hoe nơi quê nhà.
Hoàng Cầm cũng đã dùng hai từ này trong bài thơ“Lá diêu bông” mà tôi cũng rất yêu thích, có lẽ cũng bởi có hai từ này:
“…Váy Đình Bảng buông chùng cửu võng,
chị “thẩn thơ” đi tìm, đồng chiều cuống rạ..”
Một vài người lớn tuổi hơn, cho tôi biết đó là bài thơ cũng của Bình Nguyên Lộc! Cứ đinh ninh như thế cho đến sau này khi đã vào đời, những trang sách đọc được đâu đó tình cờ, cho tôi biết tác giả bài thơ hay đến nao lòng ấy là Trang Thế Hy. Một cái tên thật lạ với tôi, cũng là người Bến Tre! Tôi chưa có dịp đọc tác giả này.
Một hôm, con gái của tôi đi làm về, mua cho tôi tập truyện:”Vết thương thứ 13.” của Trang Thế Hy. Tôi đọc, càng đọc càng thích thú và thán phục, ngưởng mộ nhà văn này. Giọng văn giản dị nhẹ nhàng nhưng sắc như dao cứa vào lòng người đọc. Ấn tượng về bài thơ “Cuộc đời” vẫn còn đậm trong tôi, nên truyện ngắn “Giả đò yêu”làm tôi xao xuyến mãi.
Từ khi vào Sài Gòn, tôi tham gia sinh hoạt với nhóm VHNT Quán Văn. Hôm ra mắt tập san số 21, chủ đế: “dòng kênh Nhiêu Lộc”. Khi nhà văn, bác sĩ Đổ Hồng Ngọc lên kể về chuyến thăm nhà văn Trang Thế Hy, vào năm 2009, tôi say sưa lắng nghe, bởi như vừa bất ngờ gặp lại người quen cũ. Nhà văn Đổ Hồng Ngọc sau khi kể xong, xuống chỗ tôi ngồi. Tôi nói ra lòng yêu thích bài thơ “Cuộc đời” mà tôi được nghe qua ca khúc “Quán bên đường” với nhà văn, chính nhà văn thú nhận, cũng từng “rưng rưng” khi nghe bản nhạc ấy. Với những hình ảnh, ngữ từ giản dị nhưng gợi lên nỗi buồn đau xé lòng ở mỗi thời kỳ, mỗi ngả rẽ của đời người qua bài thơ…
Thêm một đều bất ngờ, thú vị, bác sĩ nhà văn Đỗ Hồng Ngọc, một bác sĩ chủ trương chống hút thuốc lá, lại cảm thông cho bệnh ghiền thuốc lá của tiền bối Trang Thế Hy. nói : “Vâng, ông vân vê diếu thuốc nhẹ nhàng và trang trọng như đang chuẩn bị  một nghi thức…” Hình ảnh đẹp ấy đã làm cho bác sĩ nhà văn Đổ Hồng Ngọc phải cảm thông yêu mến thói quen hút thuốc của người nghệ sĩ lão thành.
Nhà thơ trẻ Ngô Thị Hạnh, ở nhà xuất bản Phương Nam, hôm ấy cũng tham dự, đến tặng tôi tập “Thơ tình Sài Gòn”. Tôi biết nhà thơ trẻ này cũng hâm mộ và trân trọng nhà thơ, nhà văn Trang Thế Hy. Chính Ngô Thị Hạnh cho tôi biết, đã có NXB vận động xuất bản bốn tập truyện của Trang Thế Hy, kỷ niệm lúc nhà văn này bước vào tuổi chín mươi. Một việc làm đáng ghi nhận với những ai yêu văn chương, văn nghệ!

Sài Gòn, cuối tháng 5, 2015.
Trần Hữu Hội.

------------------------------------------------------------------------------------------------------
(*)Trang Thế Hy sinh ngày 29/10/1924, Qua đời 08/12/ 2015 . thọ 91 tuổi . Ông tên thật là Võ Trọng Cảnh, còn có những bút danh khác như Phạm Võ, Văn Phụng Mỹ, Triều Phong, Vũ Ái, Văn Minh Phẩm.
Ông viết Truyện ngắn, tiểu thuyết…đăng trên các báo ở miền Nam  trước 1975 và sau này.
* Phụ bản:
Bài thơ “Đắng và Ngọt”còn có tên”Cuộc đời” của Trang Thế Hy.
Cuộc Ðời
Trang Thế Hy

Ngày xưa tôi còn thơ 
Một chiều nắng đẹp khoe màu tơ 
Tôi cùng em hai đứa 
Thơ thẩn ngồi chơi trên ngạch cửạ 
Tóc em chừa bánh bèo 
Môi chưa hồng, da mét: con nhà nghèo ! 
Ðầu tôi còn hớt trọc 
Khét nắng hôi trâu, thèm đi học 
Em cầm một củ khoai 
Cạp vỏ bằng răng rồi chia hai 
Thứ khoai sùng lượm mót 
Mà sao nó ngọt thôi là ngọt. 
¤ 
Bây giờ giữa đường đời 
Kỷ niệm ngày xưa mù khơi 
Gặp nhau chiều mưa lạnh 
Hai đứa đều sang trong bộ cánh 
Dung nhan em còn tươi 
Anh mừng tưởng đâu đời em vuị 
Dè đâu đây là quán 
Em bẹo hình hài rao lên bán 
Ðang thời đông khách mua 
Chợ thịt còn sung được vài mùạ 
Nghe nói anh cầm viết 
Nghệ thuật là gì em muốn biết. 
– "Mùi hôi nói mùi thơm 
Cây bút cầm tay : cần câu cơm 
Ðó em ơi ! Nghệ thuật : 
Nhắm mắt quay lưng chào sự thật." 
Rồi đôi ta nhìn nhau 
Không có ai đánh mà lòng đau 
Em mời ăn bánh ngọt 
Nhắc củ khoai sùng mình lượm mót 
Ðường bánh tươm vàng mơ 
Như nắng chiều xưa khoe màu tơ 
Mới cầm tay chưa cắn 
Mà sao đắng thôi là đắng ! 
¤ 
Xin anh một nụ cười 
Cười là sao nhỉ ? Quên rồi ! 
Xin em chút nước mắt 
Mạch lệ em từ lâu đã tắt ! 
Hỏi nhau : buồn hay vui ? 
Biết đâu? Ta cùng hỏi cuộc đời.


Lời bài hát:
Quán bên đường(Phạm Duy)

Ngày xưa ngày xửa ngày xưa 
Chiều mơ chiều nắng đẹp khoe mầu tơ 
Hai đứa mình còn trẻ thơ 
Rủ nhau ngồi ngưỡng cửa chơi thẩn thơ. 
À a a nhớ nhớ em còn mái tóc bánh bèo 
À a a nhớ má chưa hồng da mét vì em nghèo 
Đầu anh còn húi trọc, còn húi trọc 
Khét nắng hôi trâu thèm đi học, thèm đi học 
Thèm đi học… 

Em cầm một củ khoai 
Ghé răng cạp vỏ rơi 
Xong rồi mình chia đôi 
Khoai sùng này lượm mót 
Sao ngọt lại ngọt ghê 
Giờ đây kỷ niệm ngày xưa 
Giờ đây cảnh cũ chìm xa mù khơi 
Gặp nhau một chiều lạnh mưa 
Nhìn nhau quần áo bảnh bao mừng sao. 

Nhìn em còn xinh còn tươi 
Đời em tưởng đâu là vui 
Nhà em phải chăng là đây? 
Dè đâu chẳng may là quán 
Em bẹo hình hài đem bán… 
Rồi em hỏi anh: làm chi? 
Cầm bút để viết ngày đêm, viết gì? 
Đời thối phải nói là thơm 
Ngòi bút là chiếc cần câu miếng cơm 
Em hỏi nghệ thuật là chi? 
Là đui, là điếc, là câm mà đi. 
Nhìn nhau lặng lẽ nhìn nhau 
Nào có ai đánh mà sao lòng đau. 

Bánh ngọt cùng mời ăn 
Nhớ chăng củ khoai ngon 
Bánh tươm vàng như nắng 
Bánh này mình chưa cắn 
Sao mà miệng cay đắng? 
Rồi xin một nụ cười thôi 
Cười ư? Anh đã vùi quên nụ cười 
Thì xin vài giọt lệ rơi 
Lệ em cạn đã từ lâu, người ơi 
Trước khi từ giã hỏi nhau buồn hay là vui 
Thì cứ hỏi ngay cuộc đời
 .