Thứ Bảy, 27 tháng 8, 2016

Đáo hạn. Truyện ngắn . Trạch An-Trần Hữu Hội.




                



Đáo hạn.

                                                        Trạch An-Trần Hữu Hội.

Ngồi chờ đã hai giờ đồng hồ mà vẫn chưa thấy Hằng, Thụ nhấp nhổm nhìn ra cửa. Quán không có ai, bà chủ sau khi bưng ly cà phê cho anh rồi biến đi đâu mất làm anh muốn xin thêm chút đường cũng đành chịu!
Mấy năm rồi, từ ngày lập gia đình, anh trở thành khách hàng thường xuyên của Ngân Hàng. Lấy nhau, cả anh lẫn chị đều tay trắng. Anh làm đủ việc, từ đi rừng đốn gỗ lậu đến buôn gỗ vào Sài gòn…Gom được vài chục triệu, chưa kịp mừng thì chuyến kế tiếp bị bắt! Vay nóng nhiều chứ Ngân Hàng chỉ vài chục triệu không đủ làm vốn, được cái lãi thấp, có kỳ hạn trả nợ chứ không đòi bất thường như các chủ nợ chuyên cho vay nóng. Anh nhớ có lần nghe tin anh bị bắt gỗ trong Phan Thiết, bốn năm bà chủ nợ đến liên tục làm anh phải trốn lên Đà lạt cả nửa tháng. Ở nhà, chị Thu vợ anh khốn khổ với họ…
Từ ngày làm được cái sổ đỏ, dành dụm xây cái nhà, xem như có tài sản thế chấp, anh bắt đầu trở thành con nợ của ngân hàng, làm ăn theo hướng ổn định hơn là bán đồ lưu niêm, phim chụp hình, băng đĩa nhạc...kiêm luôn nghề thu băng.
Vừa lảm trả nợ xây nhà, vừa trang trải cho sinh hoạt của hai vợ chồng và hai đứa con, món nợ ngân hàng cứ tăng dần tử ban đầu ba mươi triệu, ba năm nay đã lên trăm triệu chẵn! Cái nhà anh ở mặt tiền đường Quốc Lộ nên cũng có giá, cộng với phí phần trăm chung chi cho cán bộ tín dụng qua mấy bà cò (*), anh mới vay được tới trăm triệu. Cứ đến hạn, cố làm sao chạy cho ra tiền lãi, còn tiền gốc thì đã có các cò tạm ứng, trả xong vay lại ngay, con nợ chỉ cần ký nhận còn cò nhận tiền…
Tiền phí dịch vụ, tức tiền lãi ngày trong thời gian chờ làm thủ tục trả, vay, có người lấy cao, có kẻ tình cảm thì lấy thấp. Cò không chỉ ứng tiền gốc, họ phải hỏi trước cán bộ tin dụng có cho vay lại không mới ứng tiền…Đã có những trường hợp dở khóc dở cười là sau khi trả xong cả gốc lẩn lãi, không vay lại được. Đòi gì được khách hàng nghèo rớt mồng tơi! Bởi vậy, cò phải là tay bản lĩnh trong quan hệ với ngân hàng và cả khách hàng…
Hằng là cò cứng cựa nhất trong số cò ở vùng này.
Quan hệ ngân hàng tốt và nhiều vốn. Hằng đẹp, mượt mà, lại góa chồng. Với  cái tuổi ba chín, Hằng xem trẻ như mới chừng hai tám, ba mươi, nếu không bị cái tiếng sát phu thì chắc chị cũng đã có người tử tế chắp nối duyên tình từ lâu.
Anh chồng chị là một cán bộ huyện, đám cưới đúng ba tháng thì anh ta bị bênh uốn ván chết chỉ vì đạp cái đinh sét khi vào chăm đàn dê trong chuồng. Cũng may là đã kịp để lại cho chị thằng con trai trong bụng…Đâu khoảng chừng hai năm sau ngày chồng chết, một anh cán bộ Kiểm Lâm thương chị như điếu dổ, họ dự định làm đám cưới thì anh ta bị tai nạn chết khi vừa phóng xe ra từ cây xăng thường ngày vẫn đổ! Từ đó đến nay, nhiều người đàn ông nhìn chị khát khao…nhưng chị vẫn cô đơn.
                                                 oOo

Ba năm nay Thụ trở thành khách hàng của Hằng, lần đáo hạn này anh tính nhờ Hằng giúp cho anh tăng tiền vay lên trăm rưỡi triệu, một trăm trả lại cho Hằng còn dư năm mươi triệu mua cái máy photocopy, làm thêm dịch vụ này.
Anh vừa định gọi cho Hằng thì thấy cô ấy đến:
- Anh Thụ chờ lâu phải không?
- Ừ, kẹt gì thế?
- Anh có biết anh Kiên bên xưởng mộc không? Em vừa trả xong lãi và gốc hai trăm triệu, vay trung hạn, làm hồ sơ lại rồi nhưng vợ chồng lình xình, hôm qua đánh nhau ầm ỉ, đòi ly dị…Chuyện tới tai cán bộ tín dụng làm Ngân hàng không cho vay lại…
- Rồi sao, em uống gì anh gọi?
- Phải chờ vài hôm, êm êm rồi vợ chồng anh Kiên mời cơm, diển tuồng kha khá, nó thấy cơ sở làm ăn…Có em nói vào là xong thôi. Em uống rồi!
Hằng vòng hai tay ôm cái túi trong lòng, cười với Thụ rồi quay người nhìn quanh quán, những bụi hoa Hoàng yến vàng rực và nhiều loại hoa trồng chậu rất đẹp…nhưng từ khi vào đến giờ, Thụ chưa hề đảo mắt bởi trong anh đang cộm lên nỗi lo âu thường trực cứ mỗi lần đáo hạn. Lần này, vay thêm năm mươi triệu anh lại càng lo hơn.
Năm ngoái, khi vay lại một trăm triệu, Hằng cho anh biết là càn bộ tín dụng nói nếu tính theo sổ đỏ, ngôi nhà mặt tiền của anh còn rất ít đất sau khi trừ đường dây điện cao thế phía sau và mốc lộ giới phía trước. Tính theo giá quy định của tài chính thì lô đất không đến sáu mươi triệu, mặc dù giá thị trường có thể lên đến vài trăm! Anh nói với Hằng cứ chung chi và giúp anh vay lại mức ấy…Nhưng rồi không tốn kém gì, tiền lãi vay ngày và đơn trương cho dịch vụ Hằng chỉ lấy anh hai trăm ngàn. Anh ngạc nhiên nhìn Hằng, cô ấy nói:
- Em chỉ lấy anh phí bên Tài nguyên môi trường thôi.
Năm nào cũng vay và năm nào cũng tốn phí cho Tài nguyên dù đất và nhà ở không hề thay đổi, tiền thì không nói nhưng cái công chờ đợi…Nhiều lần hồi chưa có Hằng, anh chờ có khi cả hai ngày mới đóng được con dấu. Trong phòng chờ của tài nguyên, lúc nào cũng đông, chỉ toàn những người nghèo, vay đôi ba chục, có người chỉ vay năm bảy triệu sửa cái chuồng bò…cũng phải đợi…Những khuôn mặt lo âu ngao ngán nhìn nhau… Nếu không hoàn thành hồ sơ thì phải qua ngày khác, kéo theo chậm trễ bên Ngân hàng và tăng lãi vay vốn nóng tính từng ngày của việc đáo hạn.
Cò giải quyết khâu này rất nhanh bằng cách riêng của họ!
Bây giờ vay thêm năm mươi triệu không biết Hằng có giúp anh được không! Thụ tự nhiên hồi hộp như đứng trước cán bộ ngân hàng:
- Anh tính lần này cô giúp vay cho anh trăm rưởi, được không Hằng?
- Làm gì vay nhiều vậy anh Thụ?
- Anh làm thêm dịch vụ Photocopy.
Hằng nhìn Thụ, nghĩ tới Thu vợ Thụ, hơn năm nay bỗng bị bệnh tiểu đường và suy tĩnh mạch, vào ra Sài gòn liên tục.
-Trên một trăm là chuyển qua vay trung hạn, trả dần trong hai năm, nhưng phải có cơ sở làn ăn hay kinh doanh…Cái sổ đỏ lô đất của anh mà nó cho vay một trăm là nể nang em lắm rồi...
- Cô cứ  chi thêm phí đi Hằng, anh cần làm thêm mới có dư ra chút ít chứ như hiên tại thì chỉ đắp đổi…
Hằng có vẻ suy tính…
- Anh đưa hợp đồng vay cũ cho em, gặp thằng cán bộ này mới đổi về…hơi khó.  Có gì em gọi lại.
Thụ tin vào khả năng của Hằng nhưng vẫn lo âu. Hằng bỏ xấp hợp đồng vào túi xách, nói:
- Có thể phải lo cái giấy phép kinh doanh.
                                                    
                                                          oOo
Gom hết tiền trong nhà mới đủ một triệu rưỡi. Thụ nhìn Thu đang lo lắng bồn chồn, anh nói cho vợ yên tâm:
- Có cái giấy phép kinh doanh thì tốn thêm thuế hàng quý, hàng năm, nhưng mình làm ăn dễ hơn em ạ. Em uống thuốc chưa? mệt thì gởi ai mua đại cái gì ăn cũng được, khỏi đi chợ.
Ba ngày nay Thụ bần thần, không biết Hằng có lo được không thì sáng nay nghe cô ấy gọi, bảo đang chờ anh trên huyện, mang theo một triệu rưởi đóng tiền làm giấy phép kinh doanh cho phòng Thông Tin - Văn Hóa.
Từ phòng TT-VH đi ra, Thụ cảm phục tài giao tế của Hằng. thêm tin tưởng vào lần vay này. Anh nhìn Hằng nói rất thật tình:
- Cô Hằng nói sao mà hay vậy?
- Tiền nói chứ em có nói đâu, anh xem cái phiếu thu chỉ hai trăm bốn chục ngàn mà mình đóng tới một triệu tư lận!
- Anh tính vay xong cũng phải chạy cái giấy phép kinh doanh, giờ cô làm dùm thế này anh đỡ khổ. Cho tiền cũng chưa chắc làm dễ thế này! Xe cô để ở đâu?
- Thằng con chở em lên, giờ nó đi Phan Rang rồi. Anh cho em qua ngân hàng, nếu sáng nay duyệt được thì nhận tiền luôn.
Thụ nhìn Hằng với đôi mắt biết ơn. Khi cán bộ tín dụng nhận hồ sơ rồi trình duyệt, thì xem như đã được vay. Không cưỡng được nỗi mừng, anh nắm lấy bàn tay Hằng bóp nhẹ, nhà đễ xe vắng vẽ, Hằng dựa người vào Thụ, anh ngây ngây trong mùi nước hoa và hơi ấm của cơ thể Hằng…
Đẩy chiếc xe quay đầu, Thụ nói như cố xua đi cảm xúc vừa bùng lên trong anh:
- Cái thằng Hào leo thật nhanh, năm năm trước, hồi nó mới ra trường thực tập, ngơ ngơ ngáo ngáo…vậy mà giờ đã là phó giám đốc ngồi duyệt đơn vay!
                          
                                                   oOo
Nhận tiền xong thì cũng vừa lúc Ngân hàng nghỉ việc.
Những lần đáo hạn trước, anh chỉ ký nhận nợ ở hợp đồng, mấy tờ phiếu chi nơi quầy thu chi tiền vay rồi chào Hằng, có khi cô ấy ghé nhà lấy phí dịch vụ, có khi anh mang xuống nhà, bao giờ cũng rẻ hơn những cò khác.
Lần này số tiền nhận ra có phần dư năm mươi triệu, Hằng để Thụ tự nhận. Cô nhân viên gầy nhom ở quầy chi tiền chuổi ra cho anh một cái túi nilon có in chử “Ngân Hàng Nông Nghiệp”, Thụ bỏ tiền vào túi trong khi các nhân viên cũng lục tục chuẩn bị ra về.
Anh tìm Hằng định chào và cảm ơn như mọi khi nhưng chợt nhớ Hằng không có xe. Lác đác vài con nợ nhếch nhác và cò trong sân, Thụ thấy Hằng nổi bật trong cách ăn mặc gọn gàng sang trọng, nước da trắng mịn với nụ cười, đang đứng chờ bên quầy rút tiền ATM ngay cổng ra vào.
- Có rắc rồi gì không anh Thụ?
Hằng hỏi khi đã ngồi sau xe, Thụ nói đùa rồi quay lại đưa túi tiền cho Hằng:
- Không, kiểm tiền xong cô thu ngân còn cười duyên khi cho anh cái túi nữa!
Hằng cũng vui vẽ:
- Vay được tiền rồi thì thấy ai cũng dễ thương phải không?
Thụ cười thành tiếng, tâm trạng anh không còn nặng nề như những ngày trước.
                                                oOo
Về đến nhà Hằng, ngôi nhà rộng và vắng vẻ, Hằng bật chiếc quạt trần ở phòng khách, vào trong rồi trở ra với cái túi có năm mươi triệu và ly nước.
Đặt ly nước và cái túi lên bàn, nhìn anh cười như chia niềm vui, hỏi:
- Anh dự tính khi nào mua máy Photocopy?
- Cũng phải sắp xếp nhiều thứ, Hằng cho anh gởi mấy cái phí dịch vụ, bao nhiêu vậy Hằng?
Hằng cười cười lắc đầu:
- Sang năm đáo hạn em lấy luôn.
- Sao được!
- Được, em chỉ bỏ chút công nói giúp anh thôi mà!
Thụ không tin là Hằng không chi phí cho nhân viên tín dụng, ít nhất cũng một triệu cho trường hợp của anh! Hằng lại đứng dậy đi vào trong, trở ra với cái túi nilon màu đỏ:
- Bánh người ta cho, anh mang về cho mấy nhóc.
Thụ nhìn Hằng, bất giác anh nắm tay Hằng rồi ghì mạnh…Hằng thở dồn dập đón nhận đôi môi tham lam của Thụ! Đôi tay Hằng cũng ghì lấy tay Thụ nhưng rồi buông ra trong tiếng nói ngắt quảng:
- Đừng anh… lỡ có chuyện gì…thì tội cho Thu và…mấy đứa nhỏ!
Thụ như không nghe thấy gì…Anh siết mạnh tấm thân run rẩy trong vòng tay, nhẹ đẩy Hằng nằm xuống salon…Hằng đưa hai bàn tay yếu ớt đẩy nhẹ ngực Thụ thì thào:
- Con em sắp về…Em có đi coi nhiều thầy, ai cũng nói cái số ấy là có thật…
Thụ sựng người tỉnh lại, cơn rạo rực đang hừng hực chợt lắng xuống, anh đỡ Hằng ngồi dậy:
- Anh…anh… xin lỗi!
Hằng đưa tay vuốt tóc rồi quay qua nắm tay Thụ bóp nhè nhẹ:
- Quản lý thị trường họ cũng quản lý cả Photocopy, có rắc rồi gì thì gọi cho em…
                                            
                                      Sài gòn, tháng 8 năm 2016.
                                           Trạch An-Trần Hữu Hội.


(*) Cò: Những người làm dịch vụ ứng tiền ra trả cho Ngân hàng khi đến hạn, lấy liền lãi, tiền công làm hồ sơ…









     









Thứ Ba, 16 tháng 8, 2016

Chuyện tình của Nhạc Sĩ Nguyễn Văn Khánh và bản nhac " Nỗi Lòng " Bài sưu tầm.


Nhạc sĩ Nguyễn Văn Khánh và bản “Nỗi lòng”.

                                  NHạc Sĩ Nguyễn Văn Khánh,  Sinh ? mất 1976.

Năm 1952, khi tôi cộng tác viết loạt bài phê bình âm nhạc trên nhật báo Giang Sơn, chủ nhiệm là bác sĩ Hoàng Cơ Bình—ở phố Hàng Trống Hà Nội. Tôi chơi thân với một nhạc sĩ rất nổi tiếng lúc bấy giờ là nhạc sĩ Nguyễn Văn Khánh, tác giả các bản nhạc được nhiều người ưa thích: Chiều vàng, Nỗi lòng v.v...
Lúc ấy, Nguyễn Văn Khánh là công chức Sở Tài Chính thành phố Hà Nội. Con người Nguyễn Văn Khánh ai gặp cũng thấy mang tính chất nghệ sĩ, từ mái tóc, cách ăn nói cho tới dáng dấp thanh tao. Nguyễn Văn Khánh ít nói, nhưng khi đã nói thì thật dí dỏm, có duyên. Nhà Khánh ở trong ngõ, phố Khâm Thiên, phố toàn nhà hát cô đầu, tuy ở trong ngõ nhưng đất rất rộng. Khu ăn chơi này, trong một bài thơ mô tả cảnh chết đói 2 triệu dân năm Ất Dậu 1945, nhạc sĩ Văn Cao gọi là phường Dạ Lạc (bài thơ Chiếc xe xác đi qua phường Dạ Lạc), đã làm xúc động nhiều người. 
Trong khuôn viên nhà Nguyễn Văn Khánh có cả một chiếc ao nuôi cá. Bởi vậy vào các ngày chủ nhật, Nguyễn Văn Khánh thường có cái thú ngồi uống rượu, câu cá. Nguyễn Văn Khánh có lối uống rượu khá lạ. Uống bao nhiêu cũng không say, càng uống lại càng tỉnh táo. Như vậy, cách uống rượu của Khánh có thể gọi là tiên tửu, không giống như loại “tục tửu”—rượu vào lời ra, ăn nói lỗ mãng, nhiều khi dẫn đến gây gổ, đánh lộn. 
Hằng tuần, cứ vào các tối thứ năm, Khánh thường hay đến vũ trường chơi với tôi. Tôi là trưởng ban nhạc trong đó. Còn tôi thì cứ khoảng 10 giờ sáng chủ nhật là xuống uống rượu, câu cá và hàn huyên tâm sự với Khánh.
Có một lần, tôi đến thăm Khánh vào một buổi sáng chủ nhật, gần Tết, mùa đông trời rét như cắt ruột. Khánh đang đứng phụ giúp vợ chiên một con cá chép rất lớn trên bếp. Ở ngoài Bắc, thời ấy có cá chép chiên là rất quý. Thấy tôi đến, Khánh dừng tay, kéo tôi lên nhà trên, quạt lửa ở cái lò cho cháy lớn, bảo tôi hơ tay sưởi cho đỡ lạnh. Hôm ấy trời rét mà lại mưa phùn lất phất nên chúng tôi không ra ngoài ao câu cá mà ngồi chuyện trò với nhau trong nhà. 
Một lúc sau, Khánh vào bên trong ôm ra một chiếc hũ sành khá lớn, đặt lên trên chiếc lò rồi cười và nói:
- Lòng mình lúc nào cũng lạnh. Mùa đông mưa phùn gió bấc lại càng lạnh hơn. Nên bữa nay tụi mình phải đổ “nước sôi” (rượu hâm nóng) vào cho ấm. Cậu phải uống thật nhiều, say thì nằm đắp chăn mà ngủ đến chiều. Tối tôi đưa cậu đi làm ở trên tiệm nhảy.
Khánh vừa dứt lời thì bà xã Khánh bưng mâm lên, đặt vào bộ ván ngựa rồi mời tôi và Khánh ngồi vào đối ẩm. Vậy là hai chúng tôi ngồi trên bộ ngựa, vừa uống vừa tán dóc đủ thứ chuyện trên trời dưới biển, từ sáng đến chiều.
Được vài hôm, tôi được ban tổ chức Hội Chợ Mừng Xuân Quý Tỵ (1953), tổ chức tại bờ hồ Hoàn Kiếm, nhờ lo giùm một cuộc thi hát. Tôi nhận lời và trước hết là thành lập ban giám khảo. Người đầu tiên tôi mời là nhạc sĩ Nguyễn Văn Khánh, sau đó tới nhạc sĩ Hoàng Trọng và nhạc sĩ Hùng Lân, ba người tất cả.
Trong số thí sinh tham dự cuộc thi hôm ấy, cho đến bây giờ đã bao nhiêu năm qua rồi, tôi vẫn còn nhớ một trong những thí sinh được giải thưởng, đó là anh Khuất Duy Trác. Sau này anh trở thành ca sĩ Duy Trác rất nổi tiếng vào khoảng những năm 1960-1970, đồng thời còn là luật sư Khuất Duy Trác tại Tòa Thượng Thẩm Sài Gòn.
Dù rất thân với Nguyễn Văn Khánh nhưng tôi chưa lần nào có dịp thuận tiện để “móc” anh bộc lộ tình cảm của mình, là tại sao anh lại có những mối tơ vàng óng ả để dệt nên những ca khúc Chiều vàng và Nỗi lòng bất hủ? 
Thế rồi, cho đến một buổi chiều thứ bảy, vào dịp lễ Các Thánh (ngày 01 tháng 11 hằng năm), đột nhiên anh đến chơi, rủ tôi đi lễ nhà thờ mặc dầu cả hai đứa chúng tôi đều không có đạo. 
Trước lễ Các Thánh kỳ ấy hai ngày, lúc đó tôi còn độc thân, tôi đã cùng người yêu có đạo của tôi đi lễ tại nhà thờ Hàm Long. Nhân buổi lễ đó, tôi viết được bài Cầu Xin Đức Mẹ, bèn lấy ra hát cho Nguyễn Văn Khánh nghe. 
Anh lắng nghe xong, tủm tỉm cười, nheo mắt:
- Đi lễ với người đẹp, mắt cậu sáng lên như đèn ô tô nên mới nhìn thấy Đức Mẹ mà làm ra bản này hả? Được đấy, nghe có âm hưởng nhạc đạo lắm, được lắm!
Sau này, sau ngày đất nước chia đôi, mỗi lần vào dịp mừng Lễ Giáng sinh, Đài Phát thanh Sài Gòn trình bày bản đó tôi lại nhớ tới lời phê bình của Nguyễn Văn Khánh. 
Chúng tôi lững thững đến Nhà thờ Hàm Long. Sau buổi lễ, hai đứa tôi băng qua đường, vào quán cà phê Bằng. Trong khi đang nhâm nhi ly cà phê nóng hổi, từ cặp loa khuếch âm trên tường phát ra ca khúc Nỗi lòng: “Yêu ai, yêu cả một đời... Tình những quá khắt khe khiến cho đời ta đau tủi cả lòng... Vì yêu ai mà lòng thầm nhớ...”, khiến cho tất cả các khách trong quán đều im lặng thưởng thức. 
Khi giọng ca chấm dứt, tôi mở lời: 
- Cuộc tình tha thiết nào đã làm cho cậu có được bản Nỗi lòng và bản Chiều vàng buồn tê tái đến thế?
Khánh im lặng một lát với nét mặt đượm buồn, đưa hồn trôi về quá khứ rồi nho nhỏ tâm sự với tôi.
Khánh là con người đa sầu đa cảm, biết yêu rất sớm. Mới bước vào năm thứ hai ban Thành chung (tương đương với lớp 7 hiện nay) Khánh đã để ý, thầm yêu trộm nhớ cô bé láng giềng. Cô này cũng còn cắp sách đến trường, con gái út của một ông thông phán làm trong Phủ Thống sứ Bắc Kỳ.
Những đêm trăng sáng, Nguyễn Văn Khánh ra đằng sau vườn nhà, mang cây đàn ghi-ta ra hát các bản nhạc tiếng Pháp Cest à Capri, Jai deux amours, Madelon v.v... chứ tân nhạc lúc ấy chỉ mới có được vài ba bản của các nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, Văn Chung, Dzoãn Mẫn... nhưng chưa được phổ biến rộng rãi. Tiếng đàn quyện với tiếng hát trong đêm khuya thanh vắng vọng tới tai cô gái nhà bên. Về sau, cứ đúng giờ Nguyễn Văn Khánh lại ra vườn mà hát nghêu ngao. Có lẽ hai bên đều “tình trong như đã” nên cứ sau buổi học, chiều về đến nhà là cả hai cùng ra vườn sau, cách nhau mấy cụm mía thưa, để nhìn thấy nhau. Muốn làm hiệu, Nguyễn Văn Khánh cứ ra tới vườn là cất tiếng hát lớn. Một lát sau, nhìn sang vườn bên kia, chàng thấy bóng dáng mỹ nhân cũng ra, giả vờ làm việc gì đó nhưng bốn mắt thường “vô tình” gặp nhau.
Một buổi chiều ra vườn, Nguyễn Văn Khánh hái trên cây một quả cà chua chưa chín rồi vứt nhẹ qua hàng rào. Vứt xong, Khánh lên tiếng nhờ người đẹp nhặt giùm vì chàng với tay không tới. Cô bé cũng ranh mãnh, nhặt xong lúc đưa cho chàng bèn nói bâng quơ:
- Quả còn xanh thế này sao tự nhiên lại rụng được? 
Khánh cũng láu lỉnh hỏi lại:
- Phải là quả chín mới rụng hở cô? Cám ơn cô nhiều lắm.
Lúc ấy bốn mắt liếc nhẹ nhìn nhau như thầm trao gởi tình cảm.
Đêm hôm ấy, Nguyễn Văn Khánh thao thức không sao chợp mắt được. Nằm trong giường chàng chỉ mong cho chóng sáng. Nhưng ở đời, càng mong thời gian lại càng trôi qua rất chậm. Chàng nằm chán lại ngồi dậy, ngồi chán lại nằm xuống, giờ giấc cứ ỳ ạch gần như ngừng trôi. 
Thế rồi chuông chiếc đồng hồ quả lắc treo trên tường ngân nga đổ 4 tiếng. Chàng ngồi dậy, bước xuống đất, vặn to cây đèn dầu trên bàn cho sáng rồi ngồi vào bàn, lấy giấy bút ra định viết bức thư. Viết rồi lại xé. Xé rồi lại viết. Chàng không biết viết cái gì nên mơ ước mình có tài, làm được một bản nhạc thật hay hát cho người con gái đó nghe và nàng sẽ cảm động, phục tài chàng sát đất...
Chuông đồng hồ điểm 5 tiếng. Thư chẳng có mà nhạc cũng không, bất đắc dĩ Khánh phải ra vườn sau để cầu may xem có được gặp “người đẹp” hay không...
Bất ngờ, không hiểu vô tình hay hữu ý, “người đẹp” cũng dậy sớm, đang múc nước giếng để chuẩn bị đánh răng rửa mặt. Nguyễn Văn Khánh lách đám mía thưa, bước sang, hỏi trước:
- Cô lấy nước sớm nhỉ? 
- Vâng ạ, em vẫn có thói quen dậy sớm.
Chàng nhìn chiếc thùng kéo nước sóng sánh ánh trăng rồi lại nhìn lên trời và nói: 
- Giờ này mà hãy còn trăng. Cô có thấy cô múc cả ánh trăng đổ vào trong chậu hay không?
Cô gái bật cười, khẽ nói:
- Tại anh có tâm hồn nghệ sĩ nên mới nhìn thấy em múc ánh trăng đổ vào trong chậu chứ em thì chỉ thấy em kéo nước dưới giếng lên thôi. - Và cô khẽ đọc nho nhỏ hai câu thơ của thi sĩ Bàng Bá Lân: “Hỡi cô tát nước bên đàng, sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi?”. 
Nguyễn Văn Khánh nói:
- Cô thuộc thơ quá, lúc nào tôi phải làm một bài thơ tặng cô mới được.
- Không, em thích nghe anh hát cơ. Anh hát hay lắm, các bản Cest à Capri, J ai deux amours, Madelon...
- Cô thích nghe hát?
- Vâng...
Sau lần đối thoại đầy tình tứ ấy, Nguyễn Văn Khánh và cô gái nhà bên đã có những buổi hẹn hò bên hồ Hoàn Kiếm, Hồ Tây, Chùa Láng, Quảng Bá, Nghi Tàm—và có lần lên cả Bác Cổ để tâm tình. 
Cuộc tình thơ mộng, trong sáng kia kéo dài tới hơn hai năm mà cả hai gia đình không hề ai biết chuyện. Cho tới khi Nguyễn Văn Khánh học năm thứ tư ban Thành chung, đi thi Diplôme, chàng nhớ rõ buổi sáng đầu tiên thi một bài luận viết tiếng Pháp (Rédaction Francaise), ai đủ điểm từ trung bình trở lên thì ngày thứ 3 mới thi Toán và các môn kế tiếp. Đó là thi Viết (Écrit). Nếu đậu thi viết mới được vào thi Vấn đáp (Oral). Mỗi kỳ thi Diplôme có 2 khóa, cách nhau gần 3 tháng. Khóa 1 (Première session) vào đầu tháng 6. Khóa 2 (Deuxième session) vào cuối tháng 8. Một thí sinh nếu đậu thi viết của khóa 1 nhưng thi rớt vấn đáp thì khóa 2 chỉ phải thi lại phần vấn đáp đó thôi. Nhưng nếu khóa 2 lại thi rớt vấn đáp nữa thì phải học lại (gọi là học “đúp” – doublé) năm sau sẽ thi lại hoàn toàn.
Kỳ thi Diplôme năm ấy, Nguyễn Văn Khánh mắc lo tình yêu nên thi rớt. Cô em nhà bên buồn lắm, nói với Khánh:
- Anh bị trượt khóa 1 rồi, ba tháng hè này phải đặt hết tâm trí vào việc học để đậu khóa 2 chứ nếu phải học lại năm nữa thì thêm khó ra. Em nhất định không gặp anh đâu, để anh chú tâm vào việc học!
Nguyễn Văn Khánh năn nỉ, hứa khóa 2 thế nào cũng đậu nhưng xin nàng cho gặp mỗi tuần một lần vào chiều chủ nhật. Mới đầu nàng không bằng lòng nhưng anh nói mãi nàng cũng đồng ý và giao hẹn: “Nếu khóa 2 anh mà không đỗ thì em chia tay luôn đấy. Em không chờ đợi được đâu!”
Quả nhiên khóa 2 năm ấy Nguyễn Văn Khánh đậu thật. “Người đẹp” mừng lắm nhưng đúng lúc ấy thì ông thông phán phải đổi lên Thái Nguyên, cách Hà Nội hàng trăm cây số, gia đình phải chuyển đi theo. 
Đêm cuối cùng ở Hà Nội, hai người gặp gỡ, chia tay tạm biệt. Sáng hôm sau, Nguyễn Văn Khánh thẫn thờ nhìn theo chiếc xe đưa người yêu xa rời cố đô Thăng Long ngược lên miền núi. 
Nói tới đất Thái Nguyên, người miền xuôi ai cũng sợ, cho đó là nơi “đường ngược” rừng thiêng nước độc. Có người còn xếp Thái Nguyên vào một trong những địa phương sản sinh ra bệnh sốt rét ngã nước: “Lử khử lừ khừ, không phải Đại Từ thì cũng Vũ Nhai”. Đại Từ và Võ Nhai là hai huyện của tỉnh Thái Nguyên. Đại Từ cách thị xã Thái Nguyên 35 cây số. Võ Nhai cách thị xã Thái Nguyên 42 cây số. Bởi vậy, Nguyễn Văn Khánh vừa thương vừa lo cho người yêu. 
Thời đó, phương tiện giao thông còn ít, chỉ có xe lửa từ Hà Nội lên Lạng Sơn, muốn đi Thái Nguyên phải xuống tại ga Bắc Giang, rồi đi xe đò ngược lên, mà mỗi ngày chỉ có một chuyến. Dù xa xôi vất vả nhưng thứ bảy nào Nguyễn Văn Khánh cũng đều đặn lên thăm nàng. 
Thế rồi có kẻ đánh tiếng xin hỏi cưới nàng làm vợ. Hai gia đình hết sức môn đăng hộ đối và chàng thanh niên kia cũng là người có học, nhưng vì đã thề non hẹn biển với Khánh nên nàng luôn luôn tìm cách thoái thác, hẹn lần hẹn lữa. Vì thế, mỗi lần gặp nhau, hai người đều tâm sự qua hai hàng nước mắt. 
Trong hoàn cảnh đau khổ ấy, một lần trên chuyến xe đò từ Thái Nguyên về ga Bắc Giang, tự nhiên Nguyễn Văn Khánh nảy ra ý nhạc nói lên tâm sự của mình đối với nàng: “Yêu ai yêu cả một đời... Tình những quá khắt khe khiến cho đời ta đau tủi cả lòng. Vì yêu ai mà lòng hằng nhớ...”. 
Rồi khi trên xe lửa từ ga Bắc Giang về tới Hà Nội, chàng đã làm xong bản nhạc mà chàng đặt tên là Nỗi lòng. Tuy nhiên, có lẽ bản nhạc này là điềm báo trước một điều gì đó không trọn vẹn: “Dù sao, dù sao nếu có một ngày, một ngày ai gieo tim ta, là tình yêu kia ly tan, mà lòng vẫn thương vẫn nhớ. Tình đó khiến xui lòng ta đau. Rồi với bao ngày lặng lẽ sống, nỗi đau trong lòng người yêu vẫn yêu hoài...”.
Sau lần lên Thái Nguyên ấy, Nguyễn Văn Khánh bận việc nhà nên hai tuần lễ liên tiếp không đi được. Nửa tháng trời không gặp nhau, lòng Khánh nóng như lửa đốt và chỉ có 15 ngày thôi mà Khánh cảm thấy thời gian lâu bằng một thế kỷ. Lần này, Khánh lên Thái Nguyên như mọi lần. Đến nơi, tới nơi hẹn cũ, chờ mãi chẳng thấy bóng dáng nàng. Chờ đến chiều, Khánh đánh liều đi bộ đến gần nhà nàng để hỏi dò tin tức. Gặp bà chủ quán nước ở gần đấy, Khánh khôn khéo hỏi thăm. Bà chủ quán cho biết một tin sét đánh: cách đây khoảng chừng 10 ngày, không hiểu cô ấy bị bệnh gì, người nhà nói là trúng gió, đưa vào nhà thương nhưng sau 1, 2 ngày cô ấy đã mất. Gia đình xin xác về, chôn cô trên đồi thông cách đây khoảng một cây số.
Nghe xong, Khánh kinh hoàng, lật đật rời khỏi quán, bước như kẻ không hồn đi thẳng về phía đồi thông, nơi ấp ủ hình hài người yêu.
Mấy hôm ấy trời mưa phùn gió bấc, không hiểu sao chiều hôm đó lại tạnh, mặt trời ló ra vàng vọt, yếu ớt như mới trải qua cơn bệnh. Nguyễn Văn Khánh tìm thấy mộ nàng. Mắt chàng nhòe lệ, chàng ngồi sụp xuống, ghé sát vào nấm đất, thì thầm hát cho nàng nghe bản nhạc mà chàng đã làm vì nàng, cho nàng: “Yêu ai, yêu cả một đời... Tình những quá khắt khe khiến cho đời ta đau tủi cả lòng, vì yêu ai mà lòng hằng nhớ... Năm tháng trôi lạnh lùng hoài... Tình đó nhắc nhớ luôn đến ta tình ai. Nhớ cả một trời... Tình yêu kia mà lòng nào quên...”.
Hoàng hôn xuống dần. Nguyễn Văn Khánh u sầu, lê bước trở về quán trọ. Giữa khung cảnh bi ai trầm lắng đó, bản nhạc Chiều vàng đã hình thành với những ca từ não nề, ai oán: “Trên đồi thông, chiều đã xuống dần. Mặt trời lấp ló sau đồi. Chiều vàng... giờ đây vương thầm hồn cố nhân. Năm tháng trôi qua sóng gió đời, chiều chiều nhớ em lòng khôn nguôi...”.
Kể xong câu chuyện, Khánh rủ tôi về nhà anh ăn cơm tối. Về tới nhà, anh lấy ra một cái hộp vuông trong đó có đựng một cái khăn len quàng cổ do nàng đan tặng Khánh và xấp thư tình của nàng.
Năm ấy có kỳ thi tuyển nhân viên Sở Tài chính thành phố Hà Nội. Khánh đang học ban tú tài nhưng cũng dự thi, bất ngờ trúng tuyển và trở thành một công chức, “sáng vác ô đi, tối vác về”. 
Đầu năm 1954, có lệnh tổng động viên của Quân đội Liên hiệp Quốc gia Việt Nam (tức quân đội của vua Bảo Đại kết hợp với quân đội Pháp), tôi bị kẹt trong lệnh đó. Khánh và tôi rủ nhau đi uống cà phê để giã từ. Rồi đến 20/07/1954, ký kết Hiệp định Genève ngưng chiến tại Việt Nam. Sau ngày này, tôi theo quân đội chuyển vào trong Nam còn Nguyễn Văn Khánh thì bị kẹt ở Hà Nội.
Cho mãi tới sau 30/04/1975, gặp lại một số nhạc sĩ ngoài Bắc vô chơi trong Nam tôi mới biết tin là sau năm 54 được vài năm, Nguyễn Văn Khánh đã trút hơi thở cuối cùng tại căn nhà xưa. Tôi không ngờ buổi cà phê hơn 20 năm trước lại là lần cuối cùng chia tay với người bạn thân thiết, tác giả của bản Nỗi lòng bất hủ.


Đoàn Dự
------------------------------------------------------------------------------------------
http://www.nhaccuatui.com/bai-hat/noi-long-nguyen-van-khanh-si-phu.EuZb-JFaOS.html

Lời bài hát: Nỗi Lòng (Nguyễn Văn Khánh)

Yêu ai, yêu cả một đời 
Tình những quá khắt khe khiến cho đời ta 
Đau tủi cả lòng vì yêu ai mà lòng hằng nhớ 

Năm tháng trôi lạnh lùng hoài 
Tình đó nhắc nhở luôn đến ta tình ai 
Nhớ cả một trời 
Tình yêu kia mà lòng nào quên. 

Lòng vẫn biết nếu yêu rồi một ngày 
Là đến với đớn đau 
Nhưng sao trong ta cứ vẫn yêu vẫn nhớ 
Dầu sao, dầu sao nếu có một ngày 

Một ngày ai reo tim ta 
Là tình yêu kia ly tan 
Và lòng vẫn thương vẫn nhớ 
Tình đó khiến sui lòng ta đau 
Rồi với bao ngày lặng lẽ sống 
Nỗi đau trong lòng người yêu vẫn yêu hoài. 

Yêu ai, ai hiểu được lòng 
Thầm kín những đớn đau với riêng lòng ta 
Ấp ủ lạnh lùng tình yêu kia mà người nào hay.

Thứ Hai, 8 tháng 8, 2016

Bức Tranh . ( Truyện ngắn - Cập nhật lại )





          BỨC TRANH
          Trạch An -Trần Hữu Hội






  -Hình như cậu thích tranh ?
Luận nhìn quanh xem câu hỏi ấy phát ra từ đâu, khi biết chắc là từ ông già bất động trên chiếc xe lăn, Luận cúi đầu chào kính rồi nói:
-Vâng, cháu có thích thật, nhưng …chỉ ngắm thôi chứ chưa hề mua một bức nào !
-Tại sao?
-Tranh giống như phụ nữ đẹp nhưng kiêu kỳ, muốn đến với họ thì phải có tiền, mà cháu thì nghèo!
Một tràng cười phát ra từ chiếc xe lăn. Âm thanh dòn dội vào các ngóc ngách của quán vắng, làm Luận thấy rờn rợn.
-Sao hả Bác?
-Hai mươi hai năm trước tôi cũng nói câu này, nhưng là nói với một người phụ nữ.
Luận rụt rè:
-Dạ…
Lại im lặng, im lặng như mọi khi. Chỉ còn tiếng nhạc nhè nhẹ.
Hơn sáu tháng nay, Kể từ ngày ra tòa chia tay với người vợ gần mười lăm năm chung sống không lấy gì làm hòa thuận, điều đau nhất của anh trong cuộc ly hôn này là không dành được quyền nuôi đứa con ! Anh trở thành một kẻ độc thân ở tuổi bốn mươi ba ! Luận chọn quán cà phê này trú thân, ngoài căn nhà trọ chật hẹp, cũng ấm cúng vì nó thích hợp với mẫu người cô độc như anh. Quán này cũng thế, sâu, hẹp nhưng ấm áp, vắng và nhiều tranh…Chủ quán, một thiếu phụ, chỉ xuất hiện khi có khách vào, pha cà phê xong là biến mất, còn lại ông già bất động trên chiếc xe lăn, ngồi trầm tư như thế suốt ngày, hiếm khi nghe ông nói gì, ông ở đó như một pho tượng, khách vào, ra không hề nghĩ đến sự hiện hữu của ông !
Luận cũng quen dần và cảm thấy những bức tranh trên tường ý nghĩa hơn cả sự tồn tại im lìm đó !
Hôm nay, pho tượng ấy đột ngột mở lời khi anh đang lơ đãng ngắm bức tranh chép lại của Levitan, “ Ngày nắng”. Treo gần cửa ra vào.
-Cậu biết gì về hội họa?
-Dạ hầu như không biết chút gì !
Lại một tràng cười….
Luận bối rối không vì kiến thức ít ỏi của minh mà vì câu hỏi đến từ một người mà anh vừa mới đây thôi, cảm thấy thú vị, tò mò…
-Tôi cũng đã nói như cậu !
-Với ai ạ?
-Bà ấy! Chủ nhật này cậu có đến đây không ?
-Thưa.. ngày mai ?
-Ngày mai là chủ nhật rồi à? Tôi quên mất ngày tháng ! Ừ, ngày mai cậu đến chứ?
-Dạ vâng, cháu đến, buổi chiều được không Bác?
-Được.
Lại im lặng, một khoảng lặng mênh mông….


 
oOo

Người đàn bà rời mắt khỏi giá vẽ, ngước mắt nhìn người khách vừa vào phòng :
-Ông muốn mua tranh ?
Người khách trung niên bối rối :
-Tôi muốn một bức sơn dầu, khoảng 0m70 - 0m90.
-Vậy là ông cần kích cỡ hơn tác giả và trường phái?!
Người đàn ông bối rối chưa biết nói gì thì một câu hỏi tiếp, lạnh lùng:
-Ông không thích hội họa?
-Thời trẻ tôi có thích, nhưng chưa bao giờ có đủ tiền để mua một bức tranh nào!
Một nụ cười thoảng nhẹ trên đôi môi người phụ nữ:
-Thế sao?!
-Bà hỏi gì ạ?
-Như vậy rồi ông không tìm hiểu gì về tranh, về hội họa nữa ư?
-Vâng, hoàn toàn không biết gì!
-Tôi không nghĩ thế, ít ra thì ông biết thích tranh sơn dầu…
Câu nói như khuyến khích người đàn ông mạnh dạn thêm một chút:
-Tôi thích tranh sơn dầu về tĩnh vật hoặc chân dung. Với tôi, màu sắc vẫn là chính.
Người phụ nữ cười thành tiếng:
-Khó cho ông rồi, những phòng chép tranh chỉ chép toàn tranh phong cảnh để dễ bán. Ông có muốn đặt một bức theo ý mình không? Khá lâu mới lấy và giá tiền cũng cao hơn.
-Vâng thế cũng được, tôi không vội, miễn là đẹp.
Người phụ nữ nhìn vào mắt ông. Đôi mắt buồn của người đàn ông góa vợ mười sáu năm nay bỗng xuyến xao pha chút trìu mến, khiến người đàn bà bối rối, lãng tránh bằng cách lật những bức tranh mẫu trong cuốn album dày cộm…
 
oOo



-Bức tranh đầu tiên tôi đặt là một giỏ hoa, chép theo mẫu của Rachel Ruysch. Treo đối diện cửa sổ thứ nhất đó.
Luận nhìn theo hướng ông già vừa nói. Bức tranh vẽ giỏ hoa với màu nền tối, nhưng những đóa hoa thì rực rỡ, trắng nhạt và hồng. Mặc dù treo đối diện, ngang với cửa sổ, vẫn không sáng lên được bao nhiêu!
-Rồi những bức kế tiếp…Tôi đến phòng tranh thường hơn.
-Những bức tranh trong quán này đều do bà ấy vẽ, thưa bác?
-Ừ, trong hơn một năm, bà ấy chỉ vẽ cho tôi. Bà ấy tự chọn mẫu, còn tôi, tôi thì chỉ cần được đến đó, ngồi xem bà ấy vẽ.
-Bác đã trở thành…người giàu ?
-Tiền bán căn nhà của tôi ở Đà Nẵng, mua lại căn nhà này, mở cái quán cho con gái, tôi vẫn còn tiền để sống. Những bức tranh chép bây giờ không còn là một cái gì quá cao để tôi không thể mua nổi ! Nhưng cái chính là do… bà ấy vẽ. Ông già khoa tay quanh tường… Được mười một bức thì bà ấy không vẽ nữa !
Luận nhìn ông già định hỏi, nhưng gương mặt của ông già đã chìm trong một nỗi buồn vừa ập đến sau câu nói. Quán như trống trải hơn, tối hơn và im lặng hơn…
Bên ngoài cửa sổ, chiều xuống trên dàn hoa pháo, nơi cánh cổng nhà bên cạnh.
Im lặng, Luận nhìn vu vơ những bức tranh…
-Tôi có chuyện phải về Đà Nẵng, mười hai ngày sau trở lại thì bà ấy đã chết, bà ấy bị Ung thư đại tràng giai đoạn cuối trước khi tôi đến đó. Một căn nhà nhỏ trong hẻm sâu, nơi đứa con trai đã có gia đình ở cùng bà ấy. Cậu ta trao cho tôi một bức tranh :
-Mẹ tôi bảo trao lại cho ông và dặn ông thay khung cho bức tranh.
Luận bật hỏi và lập tức đưa mắt nhìn bức “Người đàn bà xa lạ“ của Kramskoi treo đối diện:
-Bức tranh nào ạ?
-Không có ở đây, “Bà ấy” ở trong phòng của tôi. Khi thay khung, tôi thấy bức thư của bà ấy.
Im lặng lại bao trùm căn phòng, Luận nhìn những bức tranh giờ như những mảng màu loang lỗ quanh tường, mắt anh không tập trung được vào một chỗ nào. Khi quay lại nhìn ông già, anh có cảm giác như ông đã ngủ, đầu gục xuống lọt vào đôi vai gầy…Luận rụt rè đến bên tấm thân bất động:
-Bác có …khỏe …không ạ ?
Ông già ngẩng đầu nhìn Luận, gương mặt ông như nhão ra với những giọt nước mắt. Tiếng nói của ông bất ngờ vang lên, rõ ràng, tương phản với vẻ yếu ớt của cơ thể:
-Nếu tôi trao toàn bộ tranh cho cậu, cậu có đồng ý không?
-Sao, Bác không thích nữa à?
-Tôi vẫn quý chúng như những đứa con, nhưng tôi phải vào Viện Dưỡng Lão !
-Ở đâu ạ?
-Ở Long Thành. Tôi có cô em tu ở một ngôi chùa dưới ấy. “Viện mồ côi” thì đúng hơn.
-Thế con gái bác, chị ấy?
-Tôi làm khổ nó đủ rồi. Từ ngày bị tai biến, mười sáu năm nó phải chăm sóc tôi, không nghĩ chi đến chuyện chồng con, nó trở thành gái già khi nào không hay! Giờ nó gặp một Việt kiều góa vợ, tôi muốn nó xuất cảnh theo chồng.
 


oOo

Cuối cùng thì chiếc xe chở hàng thuê cũng vào được con hẻm chật chội nơi căn phòng trọ. Hai ngày bận rộn với việc tháo gỡ, đóng gói cẩn thận những bức tranh, Luận ở trong tâm trạng ray rứt, mâu thuẫn. Phần thì xót xa với hoàn cảnh của ông già, đàng khác, anh mừng vì bỗng dung lại có được những bức tranh….Nghĩ đến chuyện phải treo những bức tranh này lên bức tường nham nhở của phòng trọ mà não lòng.
Không nôn nóng với những bức đã thấy hàng ngày trong quán, anh hồi hộp đặt bức tranh “Người phụ nữ đợi chết” lên bàn. Báu vật của ông già là bức chân dung một người phụ nữ trạc ngoại tứ tuần, chính là người đã chép lại những bức tranh. Bức tranh thật đẹp, trong không gian dịu dịu của buổi xế chiều, một gương mặt phụ nữ trong chiếc mũ len màu nâu trùm kín đầu, bên khung cửa sổ, đôi tay khoanh hờ hững, ánh sáng chếch tôn lên chiếc mũi thanh tú. ” Bà ấy đây sao !” Luận buột miệng không hoàn toàn là bởi nét đẹp của người thiếu phụ mà do đôi mắt buồn, đăm chiêu của người phụ nữ vẫn hài hòa được với đôi môi mỏng, mĩm cười như khinh bạc thách thức.
Một linh cảm mơ hồ đều gì đó thật buồn, thật xót xa ập đến trong tâm hồn Luận làm anh xao xuyến lo âu khi chợt nhớ lại lời ông già:
-Tôi đã “sống” với bà ấy hơn hai mươi năm. Giờ thì tôi không cần gì nữa, Tôi vào viện mồ côi nhưng rồi cũng sẽ không phiền ai… Bức thư vẫn ở đằng sau bức tranh. Cậu cứ giữ lấy tất cả, tôi không nỡ đốt nó !
Luận run run lật úp bức tranh, mở lưng tìm lá thư. Một tờ giấy gấp tư, như được dán vào khung vải:

oOo

Ngày … tháng … năm 1993.

Này, người đàn ông vô duyên !
Tôi đã nghĩ như thế từ khi gặp ông, cho đến lúc này, hơn một năm và trong những ngày cuối cùng của đời mình, khi những tế bào ung thư đã di căn và hủy hoại hầu hết các bộ phận trong cơ thể, gây nên những cơn đau thật khủng khiếp! Tôi vẫn gọi ông như thế.”người đàn ông vô duyên”.
Trước hết, tôi cảm ơn ông đã đi xa đúng lúc để tôi không ray rứt vì sao không có ông bên cạnh, không ngóng đợi trông mong như những ngày ông thỉnh thoảng bận việc, không đến phòng vẽ .
Tôi gọi ông là người đàn ông vô duyên bởi: Ông đến và làm tôi xao lòng khi vừa phát hiên ra căn bệnh chết người một tuần lễ. Tôi quyết định không phẫu thuật hay đều trị vì nó đã ở giai đoạn cuối. có nghĩa là tôi không còn sống được bao lâu!
Trong đôi mắt ông từ lần gặp đầu tiên ấy, tôi đọc được một điều là Tôi sẽ yêu ông, và ngược lại.
Nhưng ông có thấy vô duyên không khi không hề có đoạn kết trọn vẹn cho cuộc tình này. Ông vẫn không biết gì, nhưng tôi, tôi biết sẽ phải xa ông khi tình yêu vừa đến! lẽ ra lúc này chính tôi phải nhận lấy hai chữ “vô duyên” nhưng tôi vẫn gọi như vậy, bởi nó mang nghĩa định mệnh cho cả hai chúng ta. Vâng, đó là một định mệnh!
Bức tranh này tôi vẽ cho người đàn ông vô duyên của tôi, một bức tranh duy nhất tôi vẽ chứ không chép. Hai tháng sau khi đã trải qua lo âu, sợ hãi tột cùng…, thật lạ, tôi lại trở nên bình thản, chấp nhận ngày nó đến. Tôi đặt tên cho bức tranh là ”Người thiếu phụ đợi chết”. Hãy nhìn màu xám nhạt của bầu trời, ông sẽ thấy…Ông cũng cứ gọi như thế nhé.
Thông thường, người bị ung thư, đều trị bằng phương pháp hóa trị đều rụng hết tóc, tôi không hóa trị, nhưng tôi muốn ở trong tâm trạng thường trực đối mặt với căn bệnh khi vẽ, chiếc mũ len trùm kín đầu có làm ông hình dung được điều đó không?!
Không biết lúc nào thì cái chết đến để giải thoát cho tôi khỏi những cơn đau! Ôi, tôi tiếc biết mấy những phút giây gần gũi bên ông, êm đềm quá, yên bình quá… sẽ không bao giờ có được nữa!
Đau quá! Tôi… tôi… vĩnh biệt ông thôi…! Người đàn ông vô duyên.

Luận vẫn cầm là thư trong tay, với lòng dạ bần thần. Anh muốn nhanh chóng tìm đến ngôi chùa nào đó ở Long Thành, nói với ông già rằng anh sẽ thay con gái ông chăm sóc ông, cùng ông sống với những tháng ngày còn lại với các bức tranh. Nhưng anh vẫn ngồi bất động. Hình ảnh ông già ở nơi nào đó gục đầu thì thào ’Tôi…tôi đến với bà đây, chờ nhé” như rõ mồn một trong đầu anh!

Sài Gòn , ngày 20 tháng 3 năm 2014.
Trạch An –Trần Hữu Hội.