Thứ Bảy, 16 tháng 7, 2016

Hữu Loan....Nhà Thơ bất khuất.




Hữu Loan, nhà thơ bất khuất

Mặc Lâm.


                                 Thi sĩ Hữu Loan trên sân gạch trước nhà ông (2006)

Hôm nay chúng tôi xin được trình bày một ít chi tiết về cuộc đời nhà thơ Hữu Loan, từ khi ông bước vào lãnh vực thi ca để rồi sau đó không lâu chạm trán với những nghiệt ngã mà ông phải chịu đựng suốt hơn 50 năm trong chế độ mà ông từng hết lòng thiết tha phục vụ.

Không hề cúi đầu

Hữu Loan sinh năm 1916 tại thôn Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, Thanh Hóa. Ông học thành chung ở Thanh Hóa sau đó đi dạy học tư kiếm sống. Tham gia cách mạng từ năm 1936, hoạt động phong trào Mặt trận Bình dân tham gia Việt Minh ở thị xã Thanh Hóa.
Năm 1943, Hữu Loan về Nga Sơn gây dựng phong trào Việt Minh ở quê ông. Giữ chức Phó Chủ tịch Ủy ban khởi nghĩa huyện Nga Sơn, sau đó làm Ủy viên văn hóa trong Ủy ban lâm thời tỉnh Thanh Hóa phụ trách các ty: Giáo dục, Thông tin, Thương chính và Công chính trong kháng chiến chống Pháp.
Trong khoảng thời gian 1956-1957, Hữu Loan tham gia Phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm. Ông sáng tác những tác phẩm lên án thẳng thắn và quyết liệt đến những tiêu cực của các cán bộ nịnh hót, đố kỵ, tham nhũng hay ám hại lẫn nhau để thăng quan tiến chức.
Sau khi phong trào Nhân Văn Giai Phẩm bị dập tắt vào năm 1958, nhà thơ Hữu Loan bị cải tạo vài năm, tiếp đó bị giam lỏng tại địa phương suốt nhiều chục năm không được góp tiếng nói hay tác phẩm với đời. Ông kiên cường chịu đựng nghèo khó mà không hề cúi đầu trước thế lực của những người trước đây là đồng chí nhưng nhìn ông với đôi mắt thù hằn lẫn ngờ vực.

                                      Nhà thơ Hữu Loan. Photo courtesy of Talawas.

Ông mất vào ngày 18 tháng 3 năm 2010 tại nhà riêng thọ 95 tuổi.
Tác phẩm của Hữu Loan không nhiều trong đó gồm Màu tím hoa sim, Đèo Cả, Yên mô, Hoa lúa, Tình Thủ đô… và tập Thơ Hữu Loan.
Người không biết ông thì “Màu Tím Hoa Sim” là cầu nối dẫn họ tới nhà thơ. Với người biết ông thì bài thơ này chưa phải là đáng nói so với nhân cách của ông, một nhân cách trung thực đến cứng cỏi đáng làm tấm gương soi cho trí thức trong nhiều giai đoạn.
Hữu Loan sống và đồng hành với Cách mạng từ lúc thành công cho tới khi cũng chính Cách mạng tiêu diệt niềm tin, tính tự trọng và đau đớn hơn hết là đã làm nhiều người trở thành vô cảm trước các nỗi đau của xã hội.

Người đi bộ ngược chiều

Tuy chỉ là một nhà thơ nhưng Hữu Loan đứng bật dậy không khoan nhượng với chế độ. Nói theo cách nói của nhà thơ Nguyễn Thụy Kha thì Hữu Loan là người đi bộ ngược chiều. Chiều của dòng chảy thuần tính xã hội chủ nghĩa, chiều của a dua hay im lặng. Chiều của muôn vàn cái ác cái xấu nay đã trở thành bình thường và được nhiều người dửng dưng chấp nhận.
Hữu Loan không chấp nhận. Hơn thế ông còn lớn tiếng phê phán, thậm chí mạt sát và sau đó chấp nhận về nhà còng lưng gánh đá nuôi con. Ông chấp nhận oằn lưng dưới đá nhưng không chấp nhận cúi đầu trước những con người mà ông cho là điếm nhục, khi ngày ngày đếm đồng tiền vấy bẩn bằng mồ hôi, nước mắt của nhân dân do vị thế mà họ nắm giữ.
Nhà thơ Bùi Minh Quốc ngậm ngùi kể lại lần ông gặp Hữu Loan đầu tiên tại Lâm Đồng. Lần gặp đó cũng là lần đầu nhà thơ của chúng ta rời khỏi Nga Sơn Thanh Hóa sau nhiều chục năm câm nín.
“Lần đầu tiên tôi gặp anh Hữu Loan trong một giờ phút rất đặc biệt. Đó là lúc khai mạc đại hội Hội Văn Nghệ Lâm Đồng.Khi tôi đang ngồi trên chủ tịch đoàn thì anh em bên ngoài đưa vào một ông già tóc bạc trắng, gầy gò ốm yếu và giới thiệu là nhà thơ Hữu Loan đến thăm đại hội. Tôi đến chào đón anh bằng cách ôm anh. Sau đó tôi có làm một bài phỏng vấn anh về Nhân Văn Giai Phẩm.”

Hào khí “Đèo Cả”

Bài thơ “Đèo Cả” được Hữu Loan sáng tác vào năm 1946 cho thấy tài năng của ông đã phát lộ rất sớm. Ông nhìn bạn chiến đấu đồng hành cùng với mình bằng một đôi mắt nhân bản nhưng lời thơ hùng tráng như tiếng kèn thúc quân xóa nhòa đi tất cả nỗi thường tình nhi nữ.
Hữu Loan không ca tụng chiến tranh nhưng thơ ông có sức công phá mãnh liệt của lòng yêu nước. Hình ảnh những chàng trai hiên ngang “râu ngược chào nhau bên vách núi” ý thơ cổ điển lồng trong khung cảnh hiện thực đã tăng thêm hào khí cho bài thơ lên nhiều lần.
Đèo Cả! 
Đèo Cả! 
Núi cao ngất! 
Mây trời Ai Lao 
Sầu đại dương 
Dặm về heo hút 
Đá bia mù sương! 
Bên quán hồng quân 
Người 
Ngựa 
Mỏi 
Nhìn dốc 
Ngồi than 


Thương 
ai 
lên đường 
Chầy ngày 
Lạc giữa núi 
Sau chân 
Lối vàng xanh tuôn 
Dưới cây 
Bên suối độc 
Cheo leo 
Chòi canh 
Như biên cương. 
Tức 
Râu 
trùm 
vai rộng 
Không nhận ra 
người làng 
Rau khe 
Cơm vắt 
Áo phai màu chiến trường 
Ngày thêm 
Vượn hú 
Đêm canh 
Gặp hùm 
Lang thang! 
Gian nguy 
Lòng không nhạt 
Căm thù trăm năm xa 
Máu nghiêng sôi dào dạt 
Từ nguồn thiêng 
Ông cha. 
- Cầu xây chiến lũy ngất 
Đây hình hài thiên hoa! 
- Xâm lăng! 
- Xâm lăng! 
Súng 
Thèm 
Gươm 
Khát 
- Ai ngâm 
Lung lay 
Đêm quê nhà! 
Nhớ về thăm Đèo Cả 
Hậu phương từ rất xa 
Ăn với nhau 
Bữa heo rừng 
Công thui 
Chấm muối 
Ngủ với nhau 
Sạp rừng 
Nửa tối 

Biệt nhau 
Rừng hoang 
Canh gà 
Râu ngược 
Chào nhau 
Bên vách núi 
Giặc từ Vũng Rô bắn tới 
Giặc từ trong tràn ra 
Nhưng Đèo Cả 
Vẫn 
Giữ 
Vững 
Chân đèo Nam 
Máu giặc 
Mấy lần 
Nắng khô 
Sau mỗi lần thắng 
Những người trấn Đèo Cả 
Về bên suối 
Đánh cờ 
Người hái cam rừng 
Ăn nheo mắt 
Người vá áo 
Thiếu kim 
Mài sắt 
Người đập mảnh chai 
Vểnh cằm 
Cạo râu... 
Suối mang bóng người 
Soi 
Những 
Về 
Đâu ?!


 
                            Thi sĩ Hữu Loan và vợ, chụp năm 2004. Photo courtesy Blog 247.

                          Bà Phạm Thị Nhu, vợ cố thi sĩ Hữu Loan, bên bàn thờ chồng. 

“Trời có mắt”

Sau năm 75, mặc dù trôi dạt nhiều nơi, người Việt vẫn không quên Hữu Loan. Không những vì bài thơ “Màu tím hoa sim” bất hủ mà còn vì nhân cách sống đáng ca tụng của ông nữa. Khi quyết định trao giải Văn Chương Toàn Sự Nghiệp do tạp chí Khởi Hành khởi xướng cho nhà thơ Hữu Loan, chủ biên tạp chí này là nhà văn Viên Linh kể lại:
Một trong những điều tôi nhớ nhất trong cuộc nói chuyện với anh là khi nói rằng tạp chí Khởi Hành quyết định trao giải cho anh thì anh nói chỉ ba chữ: Trời có mắt!
Nhà văn Viên Linh
“Năm sáu tháng trước và sau khi trao giải thưởng cho nhà thơ Hữu Loan thì chúng tôi có liên lạc trước hết là những thân nhân sau đó là những bạn bè từ Paris về liên lạc với anh Hữu Loan, sau đó là gọi điện thoại. Một trong những điều tôi nhớ nhất trong cuộc nói chuyện với anh là khi nói rằng tạp chí Khởi Hành quyết định trao giải cho anh thì anh nói chỉ ba chữ: Trời có mắt!”
Nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên kể lại những lần thăm viếng nhà thơ Hữu Loan mới đây và ông cũng không dấu được ngậm ngùi khi nghe tin nhà thơ qua đời.
“Khoảng tháng 10 năm 2008 cho đến cuối năm vừa rồi tôi có nhiều dịp đến thăm nhà thơ. Như một sự ngưỡng mộ, như một sự tìm kiếm. Ấn tượng ban đầu khi gặp nhà thơ thì ông rất cương cường, cả về thể xác lẫn tinh thần. Người ông gầy sắt seo lại nhưng rất cứng cỏi và trí nhớ thì vẫn rất tuyệt vời. Ông sẵn lòng đọc thơ cho những ai đến thăm có yêu cầu…”
Ấn tượng ban đầu khi gặp nhà thơ thì ông rất cương cường, cả về thể xác lẫn tinh thần. Người ông gầy sắt seo lại nhưng rất cứng cỏi và trí nhớ thì vẫn rất tuyệt vời.
Nhà phê bình VH Phạm Xuân Nguyên
Hữu Loan sinh ra và lớn lên tại miền Bắc nhưng tôn vinh và nhận thức cái hay trong thơ ông lại là dân chúng miền Nam. Trước năm 1975, bài thơ “Màu tím hoa sim” hình như không ai ở miền Nam mà không biết tới. Tính chất bi kịch gây xúc động của câu chuyện có thực, lồng trong ngôn ngữ trữ tình lãng mạn của thi ca đã làm biết bao thanh niên miền Nam say đắm.
Giờ đây người dân miền Bắc đã biết đến Hữu Loan qua những nhạc phẩm phổ từ bài thơ của các nhạc sĩ Dzũng Chinh, Phạm Duy hay Anh Bằng. Miền Bắc biết và yêu ông hơn cả người miền Nam khi xưa vì vừa cảm động bởi bài thơ bất hủ vừa chia sẻ sâu sắc nỗi thống khổ của một người bị guồng máy trù dập như thế nào. Rất nhiều người trong họ đã nếm qua những gì mà nhà thơ từng trải nghiệm.
Tuy vẫn quay trong sự im lặng nhưng hình ảnh bất khuất của nhà thơ hình như cũng khiến cho guồng máy chững lại trong giờ phút ông ra đi. Ra đi nhưng để lại trong lòng những người yêu mến ông biết bao thổn thức..

Màu tím hoa sim.
Hữu Loan.
Nàng có ba người anh đi bộ đội 
Những em nàng 
Có em chưa biết nói 
Khi tóc nàng xanh xanh 

Tôi người Vệ quốc quân 
xa gia đình 
Yêu nàng như tình yêu em gái 
Ngày hợp hôn 
nàng không đòi may áo mới 

Tôi mặc đồ quân nhân 
đôi giày đinh 
bết bùn đất hành quân 
Nàng cười xinh xinh 
bên anh chồng độc đáo 
Tôi ở đơn vị về 
Cưới nhau xong là đi 
Từ chiến khu xa 
Nhớ về ái ngại 
Lấy chồng thời chiến binh 
Mấy người đi trở lại 
Nhỡ khi mình không về 
thì thương 
người vợ chờ 
bé bỏng chiều quê... 

Nhưng không chết 
người trai khói lửa 
Mà chết 
người gái nhỏ hậu phương 
Tôi về 
không gặp nàng 
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối 
Chiếc bình hoa ngày cưới 
thành bình hương 
tàn lạnh vây quanh 

Tóc nàng xanh xanh 
ngắn chưa đầy búi 
Em ơi giây phút cuối 
không được nghe nhau nói 
không được trông nhau một lần 

Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím 
áo nàng màu tím hoa sim 
Ngày xưa 
một mình đèn khuya 
bóng nhỏ 
Nàng vá cho chồng tấm áo 
ngày xưa... 

Một chiều rừng mưa 
Ba người anh trên chiến trường Đông Bắc 
Được tin em gái mất 
trước tin em lấy chồng 
Gió sớm thu về rờn rợn nước sông 
Đứa em nhỏ lớn lên 
Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị 
Khi gió sớm thu về 
cỏ vàng chân mộ chí 

Chiều hành quân 
Qua những đồi hoa sim 
Những đồi hoa sim 
những đồi hoa sim dài trong chiều không hết 
Màu tím hoa sim 
tím chiều hoang biền biệt 
Có ai ví như từ chiều ca dao nào xưa xa 
Áo anh sứt chỉ đường tà 
Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu 
Ai hỏi vô tình hay ác ý với nhau 
Chiều hoang tím có chiều hoang biết 
Chiều hoang tím tím thêm màu da diết 
Nhìn áo rách vai 
Tôi hát trong màu hoa 
Áo anh sứt chỉ đường tà 
Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu... 
Màu tím hoa sim, tím tình trang lệ rớm 
Tím tình ơi lệ ứa 
Ráng vàng ma và sừng rúc điệu quân hành 
Vang vọng chập chờn theo bóng những binh đoàn 
Biền biệt hành binh vào thăm thẳm chiều hoang màu tím 
Tôi ví vọng về đâu 
Tôi với vọng về đâu 
Áo anh nát chỉ dù lâu...


(1949, khóc vợ Lê Đỗ Thị Ninh) 

Bài thơ này có nhiều dị bản truyền tụng khác nhau, đây đã được xác nhận là bản gốc. Bài thơ này đã được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc như Dzũng Chinh, Phạm Duy, Anh Bằng, Duy Khánh, Nguyễn Đặng Mừng, Thu Hồ, Hồng Vân... 


Nguồn: Màu tím hoa sim, NXB Văn học, 1990



1 nhận xét: