Hữu Loan, nhà thơ bất khuất
Mặc Lâm.
Thi sĩ Hữu
Loan trên sân gạch trước nhà ông (2006)
Hôm nay
chúng tôi xin được trình bày một ít chi tiết về cuộc đời nhà thơ Hữu Loan, từ
khi ông bước vào lãnh vực thi ca để rồi sau đó không lâu chạm trán với những
nghiệt ngã mà ông phải chịu đựng suốt hơn 50 năm trong chế độ mà ông từng hết
lòng thiết tha phục vụ.
Không hề cúi
đầu
Hữu Loan
sinh năm 1916 tại thôn Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, Thanh Hóa. Ông học
thành chung ở Thanh Hóa sau đó đi dạy học tư kiếm sống. Tham gia cách mạng từ
năm 1936, hoạt động phong trào Mặt trận Bình dân tham gia Việt Minh ở thị xã
Thanh Hóa.
Năm 1943,
Hữu Loan về Nga Sơn gây dựng phong trào Việt Minh ở quê ông. Giữ chức Phó Chủ
tịch Ủy ban khởi nghĩa huyện Nga Sơn, sau đó làm Ủy viên văn hóa trong Ủy ban
lâm thời tỉnh Thanh Hóa phụ trách các ty: Giáo dục, Thông tin, Thương chính và
Công chính trong kháng chiến chống Pháp.
Trong khoảng
thời gian 1956-1957, Hữu Loan tham gia Phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm. Ông sáng
tác những tác phẩm lên án thẳng thắn và quyết liệt đến những tiêu cực của các
cán bộ nịnh hót, đố kỵ, tham nhũng hay ám hại lẫn nhau để thăng quan tiến chức.
Sau khi
phong trào Nhân Văn Giai Phẩm bị dập tắt vào năm 1958, nhà thơ Hữu Loan bị cải
tạo vài năm, tiếp đó bị giam lỏng tại địa phương suốt nhiều chục năm không được
góp tiếng nói hay tác phẩm với đời. Ông kiên cường chịu đựng nghèo khó mà không
hề cúi đầu trước thế lực của những người trước đây là đồng chí nhưng nhìn ông
với đôi mắt thù hằn lẫn ngờ vực.
Nhà thơ Hữu
Loan. Photo courtesy of Talawas.
Ông mất vào
ngày 18 tháng 3 năm 2010 tại nhà riêng thọ 95 tuổi.
Tác phẩm của Hữu Loan không nhiều trong đó gồm Màu tím hoa sim, Đèo Cả, Yên mô, Hoa
lúa, Tình Thủ đô… và tập Thơ Hữu Loan.
Người không
biết ông thì “Màu Tím Hoa Sim” là cầu nối dẫn họ tới nhà thơ. Với người biết
ông thì bài thơ này chưa phải là đáng nói so với nhân cách của ông, một nhân
cách trung thực đến cứng cỏi đáng làm tấm gương soi cho trí thức trong nhiều
giai đoạn.
Hữu Loan
sống và đồng hành với Cách mạng từ lúc thành công cho tới khi cũng chính Cách
mạng tiêu diệt niềm tin, tính tự trọng và đau đớn hơn hết là đã làm nhiều người
trở thành vô cảm trước các nỗi đau của xã hội.
Người đi bộ
ngược chiều
Tuy chỉ là
một nhà thơ nhưng Hữu Loan đứng bật dậy không khoan nhượng với chế độ. Nói theo
cách nói của nhà thơ Nguyễn Thụy Kha thì Hữu Loan là người đi bộ ngược chiều.
Chiều của dòng chảy thuần tính xã hội chủ nghĩa, chiều của a dua hay im lặng.
Chiều của muôn vàn cái ác cái xấu nay đã trở thành bình thường và được nhiều
người dửng dưng chấp nhận.
Hữu Loan
không chấp nhận. Hơn thế ông còn lớn tiếng phê phán, thậm chí mạt sát và sau đó
chấp nhận về nhà còng lưng gánh đá nuôi con. Ông chấp nhận oằn lưng dưới đá
nhưng không chấp nhận cúi đầu trước những con người mà ông cho là điếm nhục,
khi ngày ngày đếm đồng tiền vấy bẩn bằng mồ hôi, nước mắt của nhân dân do vị
thế mà họ nắm giữ.
Nhà thơ Bùi
Minh Quốc ngậm ngùi kể lại lần ông gặp Hữu Loan đầu tiên tại Lâm Đồng. Lần gặp
đó cũng là lần đầu nhà thơ của chúng ta rời khỏi Nga Sơn Thanh Hóa sau nhiều
chục năm câm nín.
“Lần đầu
tiên tôi gặp anh Hữu Loan trong một giờ phút rất đặc biệt. Đó là lúc khai mạc
đại hội Hội Văn Nghệ Lâm Đồng.Khi tôi đang ngồi trên chủ tịch đoàn thì anh em
bên ngoài đưa vào một ông già tóc bạc trắng, gầy gò ốm yếu và giới thiệu là nhà
thơ Hữu Loan đến thăm đại hội. Tôi đến chào đón anh bằng cách ôm anh. Sau đó
tôi có làm một bài phỏng vấn anh về Nhân Văn Giai Phẩm.”
Hào khí “Đèo
Cả”
Bài thơ “Đèo
Cả” được Hữu Loan sáng tác vào năm 1946 cho thấy tài năng của ông đã phát lộ
rất sớm. Ông nhìn bạn chiến đấu đồng hành cùng với mình bằng một đôi mắt nhân
bản nhưng lời thơ hùng tráng như tiếng kèn thúc quân xóa nhòa đi tất cả nỗi
thường tình nhi nữ.
Hữu Loan
không ca tụng chiến tranh nhưng thơ ông có sức công phá mãnh liệt của lòng yêu
nước. Hình ảnh những chàng trai hiên ngang “râu
ngược chào nhau bên vách núi” ý
thơ cổ điển lồng trong khung cảnh hiện thực đã tăng thêm hào khí cho bài thơ
lên nhiều lần.
Đèo Cả!
Đèo Cả!
Núi cao ngất!
Mây trời Ai Lao
Sầu đại dương
Dặm về heo hút
Đá bia mù sương!
Bên quán hồng quân
Người
Ngựa
Mỏi
Nhìn dốc
Ngồi than
Thương Đèo Cả!
Núi cao ngất!
Mây trời Ai Lao
Sầu đại dương
Dặm về heo hút
Đá bia mù sương!
Bên quán hồng quân
Người
Ngựa
Mỏi
Nhìn dốc
Ngồi than
ai
lên đường
Chầy ngày
Lạc giữa núi
Sau chân
Lối vàng xanh tuôn
Dưới cây
Bên suối độc
Cheo leo
Chòi canh
Như biên cương.
Tức
Râu
trùm
vai rộng
Không nhận ra
người làng
Rau khe
Cơm vắt
Áo phai màu chiến trường
Ngày thêm
Vượn hú
Đêm canh
Gặp hùm
Lang thang!
Gian nguy
Lòng không nhạt
Căm thù trăm năm xa
Máu nghiêng sôi dào dạt
Từ nguồn thiêng
Ông cha.
- Cầu xây chiến lũy ngất
Đây hình hài thiên hoa!
- Xâm lăng!
- Xâm lăng!
Súng
Thèm
Gươm
Khát
- Ai ngâm
Lung lay
Đêm quê nhà!
Nhớ về thăm Đèo Cả
Hậu phương từ rất xa
Ăn với nhau
Bữa heo rừng
Công thui
Chấm muối
Ngủ với nhau
Sạp rừng
Nửa tối
Biệt nhau
Rừng hoang
Canh gà
Râu ngược
Chào nhau
Bên vách núi
Giặc từ Vũng Rô bắn tới
Giặc từ trong tràn ra
Nhưng Đèo Cả
Vẫn
Giữ
Vững
Chân đèo Nam
Máu giặc
Mấy lần
Nắng khô
Sau mỗi lần thắng
Những người trấn Đèo Cả
Về bên suối
Đánh cờ
Người hái cam rừng
Ăn nheo mắt
Người vá áo
Thiếu kim
Mài sắt
Người đập mảnh chai
Vểnh cằm
Cạo râu...
Suối mang bóng người
Soi
Những
Về
Đâu ?!
Nửa tối
Biệt nhau
Rừng hoang
Canh gà
Râu ngược
Chào nhau
Bên vách núi
Giặc từ Vũng Rô bắn tới
Giặc từ trong tràn ra
Nhưng Đèo Cả
Vẫn
Giữ
Vững
Chân đèo Nam
Máu giặc
Mấy lần
Nắng khô
Sau mỗi lần thắng
Những người trấn Đèo Cả
Về bên suối
Đánh cờ
Người hái cam rừng
Ăn nheo mắt
Người vá áo
Thiếu kim
Mài sắt
Người đập mảnh chai
Vểnh cằm
Cạo râu...
Suối mang bóng người
Soi
Những
Về
Đâu ?!
Thi sĩ Hữu
Loan và vợ, chụp năm 2004. Photo courtesy Blog 247.
Bà Phạm Thị
Nhu, vợ cố thi sĩ Hữu Loan, bên bàn thờ chồng.
“Trời có mắt”
Sau năm 75,
mặc dù trôi dạt nhiều nơi, người Việt vẫn không quên Hữu Loan. Không những vì
bài thơ “Màu tím hoa sim” bất hủ mà còn vì nhân cách sống đáng ca tụng của ông
nữa. Khi quyết định trao giải Văn Chương Toàn Sự Nghiệp do tạp chí Khởi Hành
khởi xướng cho nhà thơ Hữu Loan, chủ biên tạp chí này là nhà văn Viên Linh kể
lại:
Một trong
những điều tôi nhớ nhất trong cuộc nói chuyện với anh là khi nói rằng tạp chí
Khởi Hành quyết định trao giải cho anh thì anh nói chỉ ba chữ: Trời có mắt!
Nhà văn Viên
Linh
“Năm sáu
tháng trước và sau khi trao giải thưởng cho nhà thơ Hữu Loan thì chúng tôi có
liên lạc trước hết là những thân nhân sau đó là những bạn bè từ Paris về liên
lạc với anh Hữu Loan, sau đó là gọi điện thoại. Một trong những điều tôi nhớ
nhất trong cuộc nói chuyện với anh là khi nói rằng tạp chí Khởi Hành quyết định
trao giải cho anh thì anh nói chỉ ba chữ: Trời có mắt!”
Nhà phê bình
văn học Phạm Xuân Nguyên kể lại những lần thăm viếng nhà thơ Hữu Loan mới đây
và ông cũng không dấu được ngậm ngùi khi nghe tin nhà thơ qua đời.
“Khoảng
tháng 10 năm 2008 cho đến cuối năm vừa rồi tôi có nhiều dịp đến thăm nhà thơ.
Như một sự ngưỡng mộ, như một sự tìm kiếm. Ấn tượng ban đầu khi gặp nhà thơ thì
ông rất cương cường, cả về thể xác lẫn tinh thần. Người ông gầy sắt seo lại
nhưng rất cứng cỏi và trí nhớ thì vẫn rất tuyệt vời. Ông sẵn lòng đọc thơ cho
những ai đến thăm có yêu cầu…”
Ấn tượng ban
đầu khi gặp nhà thơ thì ông rất cương cường, cả về thể xác lẫn tinh thần. Người
ông gầy sắt seo lại nhưng rất cứng cỏi và trí nhớ thì vẫn rất tuyệt vời.
Nhà phê bình
VH Phạm Xuân Nguyên
Hữu Loan
sinh ra và lớn lên tại miền Bắc nhưng tôn vinh và nhận thức cái hay trong thơ
ông lại là dân chúng miền Nam .
Trước năm 1975, bài thơ “Màu tím hoa sim” hình như không ai ở miền Nam mà không
biết tới. Tính chất bi kịch gây xúc động của câu chuyện có thực, lồng trong
ngôn ngữ trữ tình lãng mạn của thi ca đã làm biết bao thanh niên miền Nam say đắm.
Giờ đây
người dân miền Bắc đã biết đến Hữu Loan qua những nhạc phẩm phổ từ bài thơ của
các nhạc sĩ Dzũng Chinh, Phạm Duy hay Anh Bằng. Miền Bắc biết và yêu ông hơn cả
người miền Nam khi xưa vì vừa cảm động bởi bài thơ bất hủ vừa chia sẻ sâu sắc
nỗi thống khổ của một người bị guồng máy trù dập như thế nào. Rất nhiều người
trong họ đã nếm qua những gì mà nhà thơ từng trải nghiệm.
Tuy vẫn quay
trong sự im lặng nhưng hình ảnh bất khuất của nhà thơ hình như cũng khiến cho
guồng máy chững lại trong giờ phút ông ra đi. Ra đi nhưng để lại trong lòng
những người yêu mến ông biết bao thổn thức..
Màu
tím hoa sim.
Hữu Loan.
Nàng có ba người anh đi bộ
đội Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh
Tôi người Vệ quốc quân
xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn
nàng không đòi may áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
đôi giày đinh
bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
bên anh chồng độc đáo
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến binh
Mấy người đi trở lại
Nhỡ khi mình không về
thì thương
người vợ chờ
bé bỏng chiều quê...
Nhưng không chết
người trai khói lửa
Mà chết
người gái nhỏ hậu phương
Tôi về
không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
thành bình hương
tàn lạnh vây quanh
Tóc nàng xanh xanh
ngắn chưa đầy búi
Em ơi giây phút cuối
không được nghe nhau nói
không được trông nhau một lần
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa
một mình đèn khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa...
Một chiều rừng mưa
Ba người anh trên chiến trường Đông Bắc
Được tin em gái mất
trước tin em lấy chồng
Gió sớm thu về rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió sớm thu về
cỏ vàng chân mộ chí
Chiều hành quân
Qua những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim
những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
tím chiều hoang biền biệt
Có ai ví như từ chiều ca dao nào xưa xa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu
Ai hỏi vô tình hay ác ý với nhau
Chiều hoang tím có chiều hoang biết
Chiều hoang tím tím thêm màu da diết
Nhìn áo rách vai
Tôi hát trong màu hoa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu...
Màu tím hoa sim, tím tình trang lệ rớm
Tím tình ơi lệ ứa
Ráng vàng ma và sừng rúc điệu quân hành
Vang vọng chập chờn theo bóng những binh đoàn
Biền biệt hành binh vào thăm thẳm chiều hoang màu tím
Tôi ví vọng về đâu
Tôi với vọng về đâu
Áo anh nát chỉ dù lâu...
(1949, khóc vợ Lê Đỗ Thị Ninh)
Bài thơ này có nhiều dị bản truyền tụng khác nhau, đây đã được xác nhận là bản gốc. Bài thơ này đã được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc như Dzũng Chinh, Phạm Duy, Anh Bằng, Duy Khánh, Nguyễn Đặng Mừng, Thu Hồ, Hồng Vân...
Nguồn: Màu tím hoa sim, NXB Văn học, 1990
thơ và bài viết rất hay
Trả lờiXóa